BỆNH SHINGLES
Bệnh shingles (phát âm “shing-gơlz”), hay herpes zoster (tiếng Việt, có người gọi bệnh zona, bệnh giời ăn), là một bệnh da hay xảy ra. Riêng tại Mỹ, ước lượng mỗi năm có khoảng gần 1 triệu trường hợp bệnh shingles, gây đau khổ cho biết bao người.
Bệnh đặc biệt chỉ tấn công một vùng da của cơ thể, phụ trách bởi một dây thần kinh cảm giác.
Trong suốt cuộc đời, shingles sẽ đến thăm 10-20% chúng ta. Trẻ không tha, già không thương, nó đến thăm cả trẻ lẫn già, song càng lớn tuổi, ta càng dễ bị nó. Trẻ em dưới 2 tháng nếu nổi trái rạ, sau dễ bị shingles hơn các trẻ khác. Vì hai bệnh trái rạ và shingles gây do cùng một loại siêu vi (virus).
Ở người nổi trái rạ (hay “thủy đậu”, tên Mỹ: “chickenpox”, “varicella”), khi bệnh khỏi, các siêu vi gây bệnh không ra khỏi cơ thể người bệnh. Chúng theo những thần kinh dẫn truyền cảm giác dưới da (cutaneous nerves), đi ngược vào các hạch thần kinh nằm phía sau cột sống. Chúng ẩn thân, chờ thời tại các hậu cứ này. Một lúc nào đó, chúng lại rủ nhau dạo chơi, đi dọc theo thần kinh dẫn truyền cảm giác ra ngoài da, gây một hình thức bệnh khác gọi là “shingles”, tạo những bọc nho nhỏ mọng nước, rất đau ở một bên đầu, mặt, một bên thân, một bên tay hay chân. Đặt tên Việt cho shingles là bệnh “giời cắn” dễ hiểu hơn chăng?
Như vậy, shingles gây do các siêu vi trùng trái rạ, từ các hạch thần kinh trong cơ thể người trước từng nổi trái rạ, ra ngoài da dạo chơi (có khi 2-3 lần trong suốt cuộc đời người bệnh). Thế nên, siêu vi gây bệnh được đặt tên “varicella zoster virus”, vừa gây bệnh trái rạ (varicella), vừa gây bệnh “giời cắn” (shingles hay herpes zoster). Bệnh hiếm khi lây trực tiếp từ người bệnh sang người khác.
Các vị cao niên hay bị shingles hơn người trẻ, do cơ chế kháng cự (immunologic function) của cơ thể ta giảm dần theo tuổi tác, không đủ sức cản trở, ngăn cấm những siêu vi trái rạ từ các hạch thần kinh ra dạo chơi ngoài da. So với người trẻ, các vị có tuổi cũng hay đau nhiều hơn, lâu hơn (có khi nhiều tháng, nhiều năm), sau khi các vết shingles trên da đã lành.
Triệu chứng
Shingles thường diễn tiến qua 2 giai đoạn:
1. Giai đoạn trước khi nổi mụn (preeruptive phase):
Vài ngày, vài tuần trước khi trên da xuất hiện những mụn gây do shingles, bạn thấy đau thường như bị phỏng (burning), dao đâm (stabbing), đau giật từng cơn (throbbing) ở chỗ sắp xuất hiện những mụn shingles. Cái đau liên tục hoặc lúc đau lúc không.
Có khi bạn đau dữ lắm, khiến bác sĩ ngỡ bạn bị những bệnh nguy hiểm như viêm màng phổi (pleurisy), chết cơ tim cấp tính (myocardial infarction, nôm na là heart attack), nhức đầu một bên migraine (migraine headache), hoặc các bệnh nguy hiểm trong bụng. Cho đến lúc những vết shingles xuất hiện, bác sĩ mới thở phào nhẹ nhõm, xoa tay: “À, shingles”.
Trong giai đoạn “đau mà chưa thấy kẻ thù”ø, có khi đến chẩy nước mắt, nếu bạn tả kỹ vùng đang đau, may ra bác sĩ sẽ nghĩ đến shingles.
Từ tủy sống (spinal cord) nằm phía sau cột xương sống (spine), tỏa ra một hệ thống thần kinh cảm giác đi khắp cơ thể, song song với hệ thống thần kinh vận động. Hệ thần kinh vận động điều khiển sự hoạt động của các bắp thịt và nhiều cơ quan. Còn hệ thần kinh cảm giác có nhiệm vụ dẫn truyền cảm giác từ các cơ quan về tủy sống (rồi từ tủy sống, sẽ có những thần kinh khác tiếp nối, dẫn truyền cảm giác lên óc). Hai hệ thống thần kinh cảm giác và vận động làm việc phối hợp, nhịp nhàng.
Các thần kinh cảm giác của da chia nhau phụ trách việc dẫn truyền cảm giác từ da về tủy sống. Khi siêu vi shingles ra dạo chơi ngoài da, chúng đi từng đàn theo sợi thần kinh cảm giác (vừa đi vừa gặm sợi thần kinh nên gây đau), do đó, sẽ chỉ gây bệnh ở vùng da do thần kinh cảm giác đó phụ trách. Bệnh xảy ra ở một bên người: một bên đầu, một bên mặt, một bên thân người, hoặc một tay hay chân, rất hiếm khi ở cả hai bên người.
Cùng với cái đau trong giai đoạn “bị cắn nhưng chưa thấy ông giời đâu cả”, có khi bạn cũng nóng sốt, nhức đầu, uể oải, nổi hạch ở gần vùng đau. Khi các triệu chứng nóng sốt, nhức đầu, uể oải, nổi hạch giảm dần, những bọc mọng nước nho nhỏ của shingles bắt đầu xuất hiện.
Giai đoạn “đau mà chưa thấy kẻ thù, bị cắn nhưng chưa thấy ông giời đâu cả” có thể không xảy ra, nhất là ở trẻ con.
2. Giai đoạn nổi mụn (eruptive phase):
Sang giai đoạn nổi mụn, vùng đau trở nên đỏ, sưng. Trên một nền đỏ, sưng như vậy, nổi những bọc mọng nước, to nhỏ khác nhau. Nước của các mụn này, đầu tiên trong, nhưng đục dần trong vòng 3-4 ngày. Các bọc nước quây quần, tụ tập với nhau thành từng nhóm, tiếp tục xuất hiện cho đến 7 ngày sau. Rồi chúng bể vỡ, đóng vẩy, lành dần; các vẩy rụng đi trong vòng 2-3 tuần khi căn bệnh rút lui. Chỗ bị shingles có thể mang thẹo nhiều tháng năm sau đó.
Nếu chỉ có vậy, vài tuần sau, câu chuyện bạn bị shingles đã thuộc về quá khứ. Ở nhiều người, nhất là các vị có tuổi, hoặc các vị yếu sẵn vì bệnh tật, shingles ác hiểm hơn, tạo không ít khổ đau cho họ. Những chỗ da sưng, đỏ vì shingles rộng lớn hơn, với nhiều bọc mọng nước hơn, dễ bể thành những bọc máu. Da chỗ có shingles chết đi (skin necrosis), và có thể nhiễm trùng, mưng mủ; da may lành, cũng đầy thẹo.
Bệnh “giời cắn” shingles hay cắn mình ta: ở một bên lưng chạy vòng ra phía trước ngực hoặc bụng (theo đường dây thần kinh cảm giác, phát xuất từ tủy sống phía sau cột sống, chạy vòng ra phía trước), y như bệnh trái rạ cho nhiều vết trái rạ ở mình hơn ở tay chân. Nhưng, trong nhiều trường hợp, shingles không thích cắn ở mình, mà cắn một bên đầu hoặc một bên mặt. Ngại nhất là khi nó cắn vùng trán, và mũi gần mắt. Vì nó có thể bò cả vào mắt, cắn nát các màng bao phủ mắt, gây mù. Người ta nhận thấy khi một bên mũi hay chót mũi có những vết thương gây do shingles, shingles thường tạo những tổn thương nặng nhất cho mắt.
Tại mặt, có dây thần kinh mặt (thần kinh số 7) gồm hai nhánh: nhánh cảm giác dẫn truyền cảm giác từ mặt về óc, nhánh vận động điều khiển các bắp thịt mặt. Đôi khi, siêu vi shingles, tấn công nhánh cảm giác gây mất vị giác ở hai phần ba phía trước lưỡi, thừa thắng xông lên, tấn công luôn cả nhánh vận động của dây thần kinh mặt, làm liệt các bắp thịt một bên mặt (Ramsay Hunt's syndrome). Người bệnh mắt khép không kín, khi cười, nụ cười không tròn. Trong đa số các trường hợp, sau vài tuần hay vài tháng, mặt sẽ trở lại bình thường.
Shingles, nếu cắn vùng bụng dưới và háng (sacral zoster), ngoài cái đau, còn có thể gây khó hoặc bí tiểu.
Bài kỳ sau, chúng ta sẽ bàn đến các biến chứng của căn bệnh, sự chữa trị, và cách phòng ngừa căn bệnh.
Bài kỳ này, chúng ta bàn về các biến chứng của bệnh shingles (tiếng Việt, có người gọi bệnh zona, bệnh giời ăn), cách chữa trị và cách phòng ngừa căn bệnh.
Biến chứng
Bệnh có thể gây rất nhiều biến chứng, ở đây chỉ xin đề cập đến một vài chuyện dễ hiểu hay xảy ra.
1. Đau lâu (postherpet-ic neuralgia):
Biến chứng này xảy ra nhiều nhất. 10-15% số người bệnh shingles sẽ đau lâu hơn 4 tháng, nhất là ở người trên 60 tuổi.
Biến chứng đau lâu khiến nhiều vị khổ sở. Có vị nhiều tháng, nhiều năm sau vẫn đau, nhẹ hoặc nặng, hoặc có cảm giác khó chịu tại vùng trước bị shingles. Cái đau có thể dữ đến gây mất ngủ, làm xáo trộn công việc sinh hoạt hàng ngày, khiến người bệnh buồn và chán đời (depression), xuống cân.
Các thuốc thuộc nhóm chống sầu buồn (antidepressants, như Elavil, Pamelor, Tofranil, Norpramin), và nhóm chống kinh giật (anticonvulsants, như Gabapentin, Pregabalin) có thể giúp giảm đau. Kem thoa Zostrix (mua không cần toa bác sĩ) chứa chất capsicin, giúp đa số người bệnh bớt đau khổ rất nhiều, sau 4 tuần thoa thuốc đều (thoa 3-5 lần mỗi ngày). Miếng dán chứa chất lidocaine (lidocaine patches) cũng giúp bớt đau tạm thời được 4 đến 12 tiếng.
Đôi khi bác sĩ phải dùng đến thuốc giảm đau có chứa chất nha phiến giúp người bệnh bớt đau.
Người đau lâu vì shingles, rất cần những nâng đỡ về tinh thần (emotional support), ít ra cũng vài tháng.
2. Chết da, nhiễm vi trùng, và gây thẹo:
Chúng ta đã biết, ở một số người không may, nhất là các vị lớn tuổi, shingles có thể rất nặng. Siêu vi shingles làm chết chỗ da nó gặm, khiến các vi trùng (bacteria) sinh sống quanh đó, nhảy vào ăn có, tạo những vết loét có mủ, cần đến sự chữa trị bằng trụ sinh. Khi lành, chỗ da làm độc do vi trùng mang thẹo xấu. Có thẹo rất lớn. Nếu ở cổ, thẹo có thể làm da mất tính mềm mại, co dãn, khiến cổ khó xoay trở, cần đến giải phẫu lóc bớt thẹo.
3. Biến chứng ở mắt:
Biến chứng ở mắt xảy ra cho khoảng 2% người bị shingles, khi bệnh xuất hiện ở mặt, tấn công những vùng da quanh mắt.
Biến chứng này nghiêm trọng, có thể đưa đến mất thị giác, cần được nhận ra và chữa trị gấp để thị giác của mắt khỏi bị kém đi hoặc mất. Nếu bạn tự nhiên thấy có những mụn lạ gây đau mọc một bên mặt ở những vùng quanh mắt, bạn nên đi khám bác sĩ ngay.
4. Yếu bắp thịt (muscle weakness):
Biến chứng này xảy ra ở 3% số người bị shingles, do các siêu vi shingles, từ sợi thần kinh cảm giác, tiến sang và làm tổn thương luôn cả các dây thần kinh vận động gần đấy. Các dây thần kinh vận động này điều khiển sự hoạt động của các bắp thịt vùng đau, nên khi chúng thương tổn, các bắp thịt đó tất nhiên sẽ yếu, liệt.
Cũng may, sự yếu liệt thường tạm thời, và trong 75% (ba phần tư) các trường hợp, các bắp thịt yếu liệt sẽ dần hồi phục lại như trước. Quí vị cao niên, trong khoảng tuổi 60-80, hay có biến chứng này. Shingles tấn công trên mặt hay gây biến chứng yếu bắp thịt hơn ở các vùng khác của cơ thể, một bên mặt vừa đau vừa có thể trông xệ hơn bên lành.
4. Viêm óc (encephalit-its):
Viêm óc là biến chứng rất nặng, nếu xảy ra, thường trong vòng 2 tuần kể từ lúc các vết shingles bắt đầu xuất hiện trên da. Người bệnh mất sáng suốt, mê hoảng.
Những trường hợp dễ đưa đến viêm óc khi bị shingles: shingles tấn công trên mặt, vùng phụ trách bởi dây thần kinh số 5 (trigeminal nerve); người yếu sẵn (đang mang bệnh AIDS, bệnh ung thư, đang dùng thuốc làm giảm sức đề kháng của cơ thể).
Tử vong gây do viêm óc vì shingles: 10-20% (cứ 100 người, đến 10-20 người chết). Đa số những người sống sót sẽ hồi phục hoàn toàn.
Chữa trị
Shingles là bệnh siêu vi, không chữa bằng trụ sinh, song chữa bằng thuốc chống siêu vi (antiviral drugs).
Thuốc chống siêu vi Acyclovir, dùng sớm trong vòng 72 tiếng khi mới bắt đầu có những mụn shingles trên da, sẽ nhanh chóng làm giảm đau, ngăn chặn các mụn xuất hiện nhiều thêm, đồng thời khiến những mụn đã xuất hiện mau lành.
Trường hợp bệnh xuất hiện trên mặt những vùng quanh mắt, người bệnh cũng cần được gửi đi xem bác sĩ chuyên khoa mắt (ophthalmologist) để xem mắt đã tổn thương chưa, có cần được chữa thêm với thuốc nhỏ mắt hay không.
Thuốc Acyclovir chữa đau cấp thời gây do shingles, nhưng có ngăn ngừa được cái đau kéo dài sau này, khi shingles đã bỏ đi hay không, việc này chúng ta còn chưa rõ.
Hai thuốc mới Famciclovir, Valacyclovir cũng hữu hiệu không kém Acyclovir, lại tiện hơn, uống mỗi ngày ít lần hơn thuốc Acyclovir (Acyclovir uống 5 lần mỗi ngày). Có điều, chúng đắt hơn Acyclovir nhiều.
Ngoài ra, các thuốc chống đau cũng cần được dùng để chữa đau khi bị shingles; đau ít, chúng ta dùng các thuốc Tylenol, Advil, Ibuprofen, Aleve, ..., đau nhiều, chúng ta cần đến thuốc chứa chất nha phiến có tác dụng chống đau mạnh hơn.
Phòng ngừa
Bệnh shingles ngừa được với thuốc chích Zostavax. Thuốc có chỉ định dùng cho các vị 50 tuổi trở lên, ngừa được bệnh, hoặc rủi bệnh vẫn xảy ra, nó cũng nhẹ hơn, và ít gây đau lâu. Thuốc đắt ($236.56), nhưng may, Medicare trả cho các vị 65 tuổi trở lên thụ hưởng Medicare.
Bệnh shingles hay xảy ra, có khi rất nặng, gây các biến chứng nghiêm trọng, hoặc gây đau lâu khiến đời ta kém vui. 50 tuổi trở lên, chúng ta nên chích ngừa bệnh; 60 tuổi trở lên, lại càng nên.