TỊNH LIÊN THEO
MỘT LÀN MÂY TRẮNG
NGHIÊM XUÂN HỒNG
Giao tình của kẻ viết những dòng này với Tịnh Liên.
Nghiêm Xuân Hồng không có gì nhiều – chỉ là mấy phút gặp gỡ ngắn ngủi ở nhà Nguyễn Mộng Giác cách đây mấy năm và một cuốn thơ trao tặng. Tuy giao tình chỉ có bấy nhiêu nhưng lòng kính trọng Tịnh Liên thì phải nói là dày. Nó có từ những năm ở trong nước, thời hay lui tới Hội Họa Sĩ Trẻ. Gần đây, thỉnh thoảng, trong những lúc nghĩ tới hoa sen và những bài thơ chứa đựng phong vị Thiền thì lại nhớ đến Tịnh Liên. Và mới tuần trước đây thôi, trong một buổi trời u ám, lật một số báo Văn Học cũ bỗng gặp bài Mưa Rơi của cụ Nghiêm. Tự nhiên thấy xúc động, bèn trích đăng vào trang báo. Nào ngờ Tịnh Liên đã ra đi như một làn mây trắng.
Dẫu đã trễ muộn,trang báo hôm nay xin dành để tưởng niệm Tịnh Liên. Mời bạn đọc cùng nghĩ tới người. (NS)
Nghiêm Xuân Hồng
Sinh năm 1920
Sinh quán Hà Đông, Bắc Việt. Nghiêm Xuân Hồng là một trong những người chủ trương tờ Quan Điểm.
Trước 1975 hành nghề luật sư. Đã viết hơn 10 tác phẩm. Đáng chú ý, phải kể: Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng (viết từ năm 1975), Từ Binh Pháp Tôn Ngộ Đến Chiến Lược Nguyên Tử (1965-1966), Người Viễn Khách Thứ Mười (Kịch, trước 1975). Từ khi sang Hoa Kỳ, ông đọc Kinh Phật, viết sách nghiên cứu về Phật Giáo, đã hoàn thành bộ sách Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc (gồm 4 cuốn), một tiểu thuyết thần thoại viết dựa theo kinh sách nhà Phật và đã hoàn tất tại Nam Cali năm 1992. Tác Phẩm cuối cùng là Ma Chướng Trên Đường Tu. Cuốn Lăng Kính Đại Thừa, được Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam ở Los Angeles xuất bản năm 1982. Ngoài ra ông còn sáng tác rất nhiều thơ có nội dung sâu sắc, đậm triết lý nhà Phật. Nghiêm Xuân Hồng có Pháp danh Tịnh Liên. Ông từ trần lúc 1 giờ khuya rạng ngày Chủ Nhật ngày 7 tháng 5 tại tư gia thuộc quận Cam, California.
(tài liệu của báo Saigon Times)
Sau đây, chúng tôi xin trích đăng bài Những Án Mây Sầu của Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng như một tưởng niệm người đã đi vào chốn mây trắng sáng ngời màu áo Như Lai.
Gặp anh ấy vài lần trên đất này, lần nào anh cũng than phiền về sự buồn bã. Nhưng không cứ anh, tôi gặp nhiều người cũng thấy than phiền như vậy, và ngay chính tôi nhiều khi cũng thấy sự buồn bã thấm thía ấy. Nó đôi khi ùn ùn kéo đến, chẳng hiểu từ đâu, tương tự như một đám mây chiều, rồi bủa giăng dằng dặc.
Có lẽ thân phận của con người, của bọn mình là vậy, phải đối diện với nỗi buồn phiền liên miên, những áng mây sầu gần như bất tuyệt. Có lẽ đó là một niềm mây sầu gần như bất tuyệt. Có lẽ đó là một niềm đau khổ, nhưng cũng là một niềm vinh hạnh hy hữu của Người. Vì người là một loại động vật gần như độc nhất được nếm mùi vị của buồn phiền. Và chắc chắn rằng các động vật khác không có nếm đâu, vì chúng không hề có nhớ tưởng quá khứ, cũng như không hề dự tưởng tương lai. Nhất là bọn mình lại là những kẻ lưu đày lữ thứ, vừa lữ thứ lại vừa tóc bạc.
Có những nỗi buồn phiền nhè nhẹ, hầu như vô duyên cớ. Phải chăng là vì vắng bạn? Hay thiếu một khung cảnh quen thuộc, thiếu một chén rượu nồng, thiếu một nụ cười một ánh mắt, một hình bóng để thân mến? Hay phải chăng là sự e ngại âm thầm trước một cuộc sống lạ hoắc?...Nhưng cũng có những áng mây sầu sâu kín và dằng dặc hơn, đó chính là áng mây sầu của những kẻ thấy mình như những khách lữ hành lang thang trên con đường bất tận, và chợt nhận thấy rằng con đường mình đi là một thứ Đường-Đi-Không-Đến. Không những đường-đi-không-đến mà chính kẻ lữ hành đó cũng không thể hiểu mình là gì nữa, mình là ai, mình là Thực hay Mộng, và sống làm cái gì đây?... Bởi vậy những áng mây sầu quỷ quái của tâm tưởng cứ ùn lên dằng dặc.
Tuy nhiên, không riêng bọn mình, mà trong những người đã đi qua mặt trái đất này, đã có rất nhiều kẻ bị ám ảnh bởi nỗi sầu lữ khách đó. Chỉ cần nhớ lại Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Ôn Như Hầu, Nguyễn Du:
“Mây Tần khóa kín song the
Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao”
Hoặc Nhất Linh:
“Làm gì mà băn khoăn thế? Dù có núp mình trong cánh hoa, dù ẩn mình trong hạt bụi, thì nỗi băn khoăn vẫn còn nguyên vẹn...”
Hoặc nhớ lại mấy câu thơ tiền chiến:
“Sao ở đâu mọc lên trong đáy giếng
Lạnh như hồn u tối vạn yêu ma
Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta
Ý của ai trào lên đáy óc?
...
Ai bảo giùm: ta có ta không?”
Anh cũng có lần nói với tôi: “Khi tôi ngồi bồng bềnh trên biển cả, nhìn biển sâu thăm thẳm, tôi nghĩ đến mình rớt xuống đáy, chắc là phải lơ lửng lâu lắm, rớt lâu lắm, rớt sâu đến mấy chục dặm mới được nằm ở đáy biển cả.”
Vì thân xác chúng ta nặng về phần cát bụi, nặng nề đất, nên ngay khi rớt xuống biển, ta cũng chỉ thích nương về một nơi điểm tựa là đất ở đáy biển. Nếu chúng ta là cá hay chim, chắc sẽ thích nương về nước hoặc hư không. Cái lòng muốn nương đó, nhà Phật gọi là Nghiệp.
Trên đường-đi-không-đến của lữ khách bất đắc dĩ, thực ra ai cũng thầm mong kiếm một điểm tựa, một bến nước tạm dừng chân. Kiếm được thì thấy hồ hởi, chưa kiếm được thì thấy u sầu... Tùy theo tâm tưởng từng người, điểm tựa có thể muôn hình vạn trạng. Có người tìm điểm tựa ở đồng đô la, ở quần áo đẹp, ở một chiếc ô tô mới, ở một căn nhà, ở một chút danh vọng, ở vợ con, ở bạn bè, ở một tác phẩm. Có những kẻ rắc rối hơn, muốn tìm điểm tựa ở một tâm tư, một tâm tưởng; cái vụ này nó vô hình, khó sờ mó, nhưng có vẻ bền bỉ hơn.
Có lẽ bọn mình thuộc loại lữ khách bất đắc dĩ và rắc rối... Nói đến đường-đi-không-đến, lại nhớ những câu chuyện cổ xưa cùng những nhân vật có vẻ huyền thoại. Nhớ đến Tôn Ngộ Không cùng ngài Thiện Tài Đồng Tử. Tôn Ngộ Không cũng đi hoài đi hủy trong bàn tay Phật Tổ Như Lai, nhưng cũng chẳng đi đến đâu, và cũng không thoát ra được bàn tay ấy. Còn ngài Thiện Tài Đồng Tử trong kinh Hoa Nghiêm thì đi hoài đi hủy trong “lỗ chân lông” của Đức Phổ Hiền Bồ Tát, và vẫn thấy những cảnh giới gần như vô tận, không biết đâu là ngăn mé...
Tôn Ngộ Không là một nhân vật sáng tạo ra do một vị đạo sĩ Tàu, để tượng trưng cho cái tâm biến-hóa, nhưng sự mơ màng của tác giả cũng không đến nỗi sai lời kinh cho lắm. Còn ngài Thiện Tài là một vị Bồ Tát trong kinh, và theo chỗ tôi biết, thì lời kinh không có mảy may hư vọng... Ngài Thiện Tài là một bậc đã đắc đạo khá cao rồi, nghĩa là tâm đã tương ứng với Vũ Trụ, tương ứng với Vật, có thể chuyển được vật rồi, có thể tùy ý tạo những Hóa Thân mà vẫn phải đi hoài đi hủy, loanh quanh luẩn quẩn chưa thoát được ra khỏi vòng pháp giới.
Nếu không có gì lạ, nếu chúng ta còn loanh quanh luẩn quẩn trong giòng đời, chưa thoát ra khỏi giòng đời cùng bàn tay của thần linh... Có một thời tôi say mê lời nói của Trang Tử:
“Châu này nằm ngủ, mộng thấy mình hóa bướm, nhởn nhơ bay lượn. Tỉnh dậy lại thấy mình lù lù là Châu. Chợt nghĩ không hiểu mình có phải là Châu nằm mộng thấy hóa thành bướm hay chính mình là bướm nằm mộng thấy hóa thành Châu.”
Tôi say mê, vì đó chính là giấc mơ Hóa Thân, giấc mơ biến hóa vô cùng, giấc mơ tâm-chuyển-vật để tiêu-dao-du tự tại của một kẻ mặc áo vải là Trang Châu. Vào thời kỳ đó, tôi đôi khi cũng mơ tưởng muốn đánh một giấc ngủ cô miên để hóa thành bướm mộng, được tiêu diêu tự tại thì thực thích thú vô cùng.
Ngày nay, tôi đọc Kinh Phật, thì thấy muốn dừng chân lại đó. Trên con đường-đi-không-đến, muốn dừng chân lại nơi trang-kinh-huyền-hoặc. Ví tất cả lời kinh cũng chẳng dạy gì khác, mà chỉ dạy cách thực hiện giấc mơ Hóa Thân đó đến chỗ tuyệt vời mà thôi, dạy cách làm thế nào để chuyển cái xác thân nặng nề u ám này thành một hóa thân tuyệt diệu. Và đồng thời cũng chỉ cách hóa giải tất cả những án mây sầu.
Vì thế nên lữ thứ này, mỗi khi có án mây sầu hiện đến, thì tôi lại lần giở mấy trang tôn-kinh-huyền-hoặc:
“Trở giấc mình với bóng
Mây sầu dâng ngang mày
Khép cửa niệm kinh cũ
Mưa khi nào chẳng hay...”
Chúc anh tìm được cái thú cô tịch trong cử chỉ nâng chén rượu và nhìn tuyết bay, và nghĩ rằng tâm tư của mình nhiều khi cũng bời bời như tuyết bay vậy.
NGHIÊM XUÂN HỒNG