TIẾNG KHÓC DƯỚI
CHÂN NÚI VÀ
TIẾNG NẤC TRÊN BIỂN
TÂM THÀNH
Một trong các đề thi tuyển vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Khóa IV năm 1959 (trước khóa của Đào Văn Bình 7 năm) là “Hà chính mãnh ư hổ”. Trước khi bình giảng đề tài này, tất nhiên các tuyển sinh phải kể tích Đức Khổng Tử cùng đệ tử sang nước Tề, qua núi Thái Sơn, thấy một người đàn bà ngồi bên đường khóc thảm thiết. Ngài sai Tử Cống ra hỏi cớ sự. Người đàn bà thưa “Cha chồng tôi chết vì cọp, chồng tôi chết vì cọp, nay con trai tôi lại vừa chết vì cọp. Thảm lắm ông ơi!”
Tử Cống hỏi “Sao bà không dọn đi nơi khác mà ở?”Bà đáp “Dù sao, ở đây quan quyền cai trị không đến nỗi hà khắc như các nơi khác.”Đức Khổng quay sang nói với môn đệ “Các trò nhớ đấy: Chánh sách hà khắc còn khốc hại hơn cọp dữ.”Sau một phần tư thế kỷ, làn sóng vượt biển chạy trốn ‘hà chính’ nước Việt đã thoái trào, phần vì thời cuộc đã đổi thay, phần vì chính những người ra đi - nhiều người không nhớ gì ý nghĩa của việc ra đi của mình. Thiên Sử Thi Của Người Vượt Biển vì thế, là một cần thiết, dù làn sóng thuyền-nhân-tị-nạn-chính-trị đã chấm dứt.
Đối với Đào Văn Bình, có một thứ tệ hại hơn hà chính:
Dịch hạch?Thiên tai?Phóng xạ?Ôn hoàng dịch lệ?Aids?Không!Cờ đỏ sao vàng!(Khởi Đầu Trang Sử Bi Thương)
Bởi lẽ cái căn bản nhất:
Tình người đã chết trên một thành phố buồn
(Mặt Trời Đã Tắt)
Văn hóa suy tàn vì chủ nghĩa vong bản:
Câu đối hoành phi mục nát rồi
Miếu đường ngơ ngác đãi trăng soi
Bốn nghìn năm ấy chừ xa lạ
Quốc Tổ có về cũng khóc thôi
(Bên Đền Thánh)
Đào Văn Bình đi nghe ngóng tiếng khóc than của lê dân, của người thương gia, của em học sinh, lời bà dặn cháu, lời vợ chồng nhỏ to và ghi lại thành những lời bi thiết, chứng tỏ anh không chỉ khóc cho riêng mình, mà cho mọi người. Yêu nước tha thiết, Bình đau đớn lắm khi phải xa lìa Tổ Quốc. Bằng tưởng tượng, anh giong buồm dọc bờ biển, từ Móng Cái tới Cà Mau, qua từng thành phố, qua từng cửa biển, từng ngọn núi, anh ghi khắc trong lòng những hình ảnh quê hương, để tới nơi sau cùng, giơ tay vĩnh biệt:
Qua Phú Quốc nghe hồn tan nát vỡ
Bầy cá mai cũng đã bỏ đi rồi
Nước mắm ơi nước mắm cũng đổi đời
Nghe từng bước quặn đau tình cố lý
(Biển Việt Ơi Căng Buồm Gió Lộng)
Văn xuôi và thơ nói về thảm cảnh vượt biển của người Việt có thể chất đầy một thư viện nhỏ, nhưng tập trung thành một sử thi với bố cục từ nguyên do, tới việc chuẩn bị ra khơi và tới bờ tới bến, thì tôi nghĩ là hiếm, chắc chắn có nhà thơ đã làm, nhưng tôi chỉ có hân hạnh đọc Đào Văn Bình như người đầu tiên. Anh ghi lại một cách sống động hầu hết những thảm cảnh Phong ba chợt đến, Cướp biển, Lạc hướng, Chết khát và những chia ly, tan tác... Hãy coi những người may mắn thoát thân một mình, nhưng lạc mất người thân yêu:
Buổi chiều trên mỏm núiCó những người ngồi rất lặng thinh
Và rất cô đơn
Đối diện tới lòng mình
Mắt nhìn ra biển
Dõi trông
Với một tia hy vọng rất mong manh
(Biển Ngóng Chờ)
Tuy Bình khiêm nhường tự thú:
Văn tôi không hay lời thơ tôi không đẹp
Nhưng tình tôi chân thành tha thiết
Của con tim và của những năm tháng u buồn.(Lời Ru Của Tôi)
Và có đôi chỗ Bình chửi đổng chứ không phải làm thơ:
Hình lão Mao người Tàu.Hình cụ Mác người Đức.
Hình cụ Lê người Nga.Hình thằng giặc già râu dài phải kêu bằng Bác.Toàn những hình chết tiệt!(Trong Trung Học)
Nhưng xét lại, hình như anh cố ý dùng lời thô tháp cho những cái thô tháp. Hoặc giả một bà già hiền lành mà uất ức quá, còn thể nói gì hơn “Quân chết tiệt!”Như thế thơ anh nằm trong cái mộc mạc, bình dị. Hơn nữa Đào Văn Bình, đôi lúc ‘chửi’, không phải vì hằn học, mà vì anh tức tưởi trước nỗi đau của dân tộc. Anh nấc đấy! Tiếng nấc kéo dài thành một thiên sử thi. Bên dưới tiếng nấc đó là một tấm lòng yêu thương, hy vọng:
Tôi muốn quên và quên cho hết
Chỉ giữ gìn lại một chút tin yêu
Rằng đất nước này không phải của ai
Của tất cả và của bốn ngàn năm lịch sử
Rằng không một ai có quyền cướp nó
Trả thương yêu và nhân ái lại cho đời.(Lời Ru Của Tôi)
“Rằng đất nước này không phải của ai” Vậy mà đảng Cộng sản Việt Nam, bằng hiệp định phân đất ngày 25.12.2000, cắt một vùng hải phận và địa phận cho Trung Quốc, trong đó có di tích tượng trưng nền tự chủ của Việt Nam - Ải Nam Quan và Ải Chi Lăng. Có phải quân bán nước chết tiệt không?Trong phần hai của thi tập, Đào Văn Bình khép lại trang sử đau thương, anh trở về con người lãng mạn, và thơ rất thơ, ‘Tháng Tư Đen’ trở thành ‘Tháng Tư Huyền Diệu’:
Anh nắm tay em trời nồng ấm
Tình yêu muôn thuở vạn lần xanh.(Tháng Tư Huyền Diệu)
Sang phần ba của thi tập, trường ca Cộng Oán Ngâm Khúc thật là thống thiết. Lời thơ bình dị mà thấm thía. Nhiều câu có thể trở thành ca dao thời đại. Tôi tin rằng nếu được phổ biến rộng rãi, ngâm khúc này sẽ trở thành một khúc trường ca dân gian, một bia đá ngàn đời lên án bọn cộng sản hại dân hại nước.Người đọc khép lại tập thơ, lòng dâng tràn niềm thương xót cho dân tộc mình, cho những người đã gục ngã trong lao tù cộng sản, chìm sâu dưới lòng biển cả, và long đong nơi quê người. Để rồi muốn cùng Đào Văn Bình tạm nguôi nét bi để tô thêm nét tráng cho thiên sử thi đẹp.