Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

SÀI GÒN,

MỘT THỜI CỦA MỘT ĐỜI

 

NGUYỄN MẠNH TRINH

 

 

Có nhiều bài thơ về Sài Gòn.  Thành phố ấy, với nhiều người, là thánh địa của kỷ  niệm. Với Nguyên Sa, là Tám Phố Sài  Gòn, là “Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều”, là “Sài Gòn phóng solex rất nhanh"  "Sài Gòn ngồi thư viện rất ngoan" “Sài  Gòn tối đi học một mình", "Sài Gòn cười đôi môi rất tròn”, là “Sài Gòn gối đầu trên cánh tay”..  Với Quách Thoại  buổi sáng, là “sáng nay tôi  bước ra giữa thị thành/để nghe phố nói nỗi niềm mới lạ/tiếng xe tiếng còi tôi nghe đường xá / cả âm thanh của cuộc sống mọi người/ một nụ cười chạy ẩn giữa môi tươi/trên tim nóng trong linh hồn tất cả /..” Với Trần Dạ Từ  là buổi trưa, về Thị Nghè: "vẫn một mặt trời trên mỗi chúng ta/ và mỗi chúng ta trên một bóng hình/tôi vô giác như mặt đường nhựa ẩm/trũng  nỗi sầu đau náo nức lưu thông/mùa hạ đi qua tựa hồ giấc mộng/ tôi chạy điên trong một bánh xe tròn / và đứa trẻ hít còi người đàn bà bước xuống/ ôi chiếc cầu , ôi sở thú. ôi giòng sông/..”  Với Cung Trầm Tưởng, là mưa, là “mưa rơi đêm lạnh Sài Gòn / mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi/ mưa hay trời cũng thế thôi/ đời nay biển lạnh mai bồi đất hoang/..”  Với Luân Hoán, là ngồi quán, là “ngồi La Pagode ngắm người/thấy em nhức nhối nói cười lượn qua/mini-jupe trắng nõn nà/vàng thu gió lộng chiều sa gót giày/ ngẩn theo tóc, tuyệt vời bay/ hồn thơ thức mộng trọn ngày bình yên/”  Với Bùi Chí Vinh, là  ngày bãi trường mùa hạ “những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng / em chở mùa hè của tôi đi  đâu/ chùm phượng vĩ là tuổi tôi mười tám / tuổi thơ ngây khờ dại mối tình đầu..”..

Và với nhiều thi sĩ khác, Sài Gòn là phố cây xanh, là đêm cúp điện, là chiều mưa giọt, là trưa nắng đỏ. Ôi Sài Gòn, của cõi thơ không cùng, của những chân trời thi ca bao la, của những trái tim lúc nào cũng dồn dập nhịp thở của tháng ngày tuy náo động nhưng chẳng thể nào quên.

Với riêng tôi, Sài Gòn là muôn vàn kỷ niệm.  Là những con đường quen thân , nhắc lại một thuở ấu thời.  Là ngôi trường Chu văn An, nơi tôi miệt mài suốt bảy năm trung học.  Là trường Khoa Học, là trường   Luật trướv khi vào lính. Là  cổng Phi  Long  vào phi trường Tân Sơm Nhứt khi vừa nhập ngũ. Là những mơ mộng tuổi trẻ,  lúc vừa bước vào đời sống  quân đội  trong một đất nước đang trong tình trạng chiến tranh.

Buổi trưa , nằm dài trên sân cỏ mượt  nhìn lên nóc nhà thờ Ngã Sáu , dưới bóng cây dầu cao vút, nghĩ về tương lai nhìn theo  những sợi mây bay qua . Nghe xôn xao trong lòng những sợi nắng lung linh. Ôi, thuở còn đi học, mấy ai tiên đoán được số mệnh mình.  Mây bay đi, như đời  trôi qua.

 

“nằm trên cỏ nhìn trời cao

lung linh sợi nắng  thuở nào  phai phai

nhìn tượng Chúa dưới tàng cây

giơ vai chĩu nặng tháng ngày chiến tranh

mùa hạ mấy bước đi quanh

cổng trường đóng những đoạn đành thế thôi

ngày mai đi bốn phương trời

mây phiêu lãng  chợt thương đời phù du..”

 

Sài Gòn những mùa thu.  Có những con đường  xôn xao áo lụa.  Có những buổi tan học nhìn tà áo trắng mà mơ ước vu vơ. Để đêm về,  trên trang vở học trò, vẽ bâng quơ đôi mắt ai, mái tóc ai:

 

“Thành phố ấy , xôn xao tà áo trắng

nắng hanh vàng trải lụa những mùa  thu

guốc chân sáo để hồn ai ngơ ngẩn

bước mênh mang  nghe quẩn  sợi sương mù

mây  vào áo lồng lộng bay chiều gió

lụa trắng trong e ấp buổi hẹn hò

sợi mi cong  tưởng chập chờn ngực thở

tóc ai buông dài xõa những câu  thơ.

 Thành phố ấy,  mấy ngã tư đèn đỏ

 Ai chờ ai khi kẻng đánh tan trường

Bài thơ trao còn nguyên trong cuốn vở

Thuở ngại ngùng lần bước đến yêu thương..”

 

Sài Gòn của một thời   mặc áo lính. Khi ở xứ biên trấn xa xôi, nhớ về thành phố với người thương, với phố quen,   trên máy bay lượn vòng thành phố , nghe như  mình đã trỡ về quê hương mình. Khi  đổi  về  đơn vị ở phi trường Biên Hòa , mỗi  buổi sáng tinh sương  ghé phở Tàu Bay,  ăn tô phở đầu ngày trong cái không khí trong veo buổi sớm , nay nhớ lại  còn trong dư vị miếng ăn ngon của một thời tuổi trẻ.

Năm 1968, lệnh tổng động viên nên vào lính nhập khoá với những người cùng trang lứa. Lúc ấy, với hăng hái của người nhập cuộc, hiểu được bổn phận của một công dân thi hành nghĩa vụ quân sự với đất nước.  Lúc ấy,  mắt trong veo và tâm hồn như tờ giấy trắng:

 

"Bọn ta ba trăm thằng tuổi trẻ

Chọn không gian tổ quốc mênh mông

Mắt sáng môi tươi như tranh vẽ

Vào lửa binh không chút nao lòng

Chia sẻ với nhau  thời  bão gió

Đời muôn nhánh rẽ ngược xuôi nguồn

Cánh chim phiêu bạc ngàn cổ độ

Tử sinh ai luận chuyện mất còn?

Ngồi uống cùng nhau các hảo hán

Tưởng ngày xưa rượu tiễn lên đường

 Sách  vở giảng đường thành dĩ vãng

Những chàng trai dệt mộng muôn phương..”

 

Rồi , vận nước đến thời , gia đình ly tán, đi vào trại tù , nếm đủ những cay đắng của đời cải tạo . Khi trở về, Sài Gòn, cảnh vẫn cũ nhưng người  xưa đã khác . Như Từ Thức về trần , cả một thế thời thay đổi. Người về, từ  trại tù  nhỏ sang qua  nhà giam  lớn, vẫn những con mắt công an cú vọ rập rình, vẫn những lý lịch trích dọc, trích ngang đeo đuổi. Tạm trú, tạm ngụ , ở chính ngôi nhà của mình. Nơi  sẽ định cư  của những người tù cải tạo , là những vùng kinh tế mới xa xăm , những nơi chốn đầy ải của ngày tuyệt lộ. Trở về xóm cũ,  làm người lạ mặt:

 

“Đỏ bầm  mặt nhựt cơn mê

lạnh tanh khuôn mắt người về dửng dưng

vào ra lối rẽ ngập ngừng

 mấy năm sao lạ , nỗi mừng chợt xa

 cầu thang  quẩn dấu chân qua

đời như hạt nước mưa sa bóng chiều

từ rừng máu giọt gót xiêu

thảm thương phố cũ nắng thiêu mộng người

đỏ bầm ánh điện đường soi

 cây nhân sinh chợt nẩy chồi cuồng điên

nhìn soi mói nụ cười đen

mắt hằn dấu đóng  chao nghiêng một ngày.”

 

Về trình diện công an khu vực , nhìn nụ cườigằn vừa mỉa mai vừa soi mói , nhìn đôi mắt cú  đóng dấu vào một ngày  thất  thế của người bại binh, ôi đau xót cho một đời ngã ngựa.

Ở Sài Gòn những ngày giặc chiếm,  vẫn còn âm hưởng của một cuộc chiến chưa tàn .  Trên chuyếbn xe bus  nội ô, một người lính  què dẫn dắt người lính mù hát những bài hát ngày xưa ngày còn chiến đấu dưới cờ. Quân lực VNCH  là tập thể của những người lính tin tưởng vào công việc làm của mình. Dù thua trận nhưng họ không muốn làm hèn binh nhục tướng…

 

“trang lịch sử đã dầy thêm lớp bụi

ngăn kéo đời vùi kín mộ phần riêng

Và lãnh đạm chẳng còn người nhắc đến

Người trở về từ cuộc chiến lãng quên

Đôi mắt đục nhìn mỏi mòn kiếp khác

 Dắt dìu nhau khập khiễng chuyến xe đời

Người thua trận  phần thịt xương bỏ lại

Trên ruộng đồng sầu quê mẹ rã rời

Chuyến xe vang lời thơ nào năm cũ

Nhắc chặng đường binh lửa thuở xa xưa

khói mịt mù  thời chiến tranh bụi phủ

Nghe bàng hoàng giọt nắng hắt giữa trưa

Tiếng thê thiết gọi địa danh quen thuộc

Thuở dọc ngang mê mải ngọn cờ bay

Cuộc thánh chiến gió muộn phiền thổi ngược

Dấu giày buồn còn vết giữa sình lầy

Nghe lời  hát tưởng đến người gục ngã

Cả  chuyến xe  chia sẻ một nỗi niềm

Âm thanh cao xoáy tròn   dù gỗ đá

Thức hồn người vào nhịp thở chưa quên

Ơi tiếng hát vinh danh đời lính chiến

Cho máu xương không uổng phí ngày mai

Có sương khói từ mắt thầm cầu nguyện

Cho lỡ làng không  chĩu nặng bờ vai

Người thản nhiên những tia nhìn cú vọ

Đây thịt xương còn sót lại một đời

Còn ngôn ngữ của Việt Nam đổ vỡ

Dù rã rời nhưng vẫn thắm nụ cười

Ta nghe rực trong hồn trăm bó đuốc

Mặt trời lên xua tăm tối  cho đời..”

 

Ở Sài Gòn năm 1980, là những ngày tôi cựa quậy trong nan lồng

Nghèo đói, bất công, đe dọa, bắt bớ, đủ thứ khổ nạn đổ lên đầu người dân  nhất là những người được thả về từ trại tù. Mỗi ngày trình diện công an, rồi mỗi tuần , mỗi tháng nhưng áp lực thì càng ngày càng tăng. Tạm trú, từng tháng, từng ngày. Không có một chỗ nào ở thành phố cho các anh, người thua trận. Tôi, không có hộ khẩu, ở tạm trong nhà của mình. Rồi tham gia tổ chức vượt biên ở  Bến Tre bị công an tỉnh này  lên Sai Gòn  tìm bắt . May là thoát được  nên sau đó là phải sống lang thang đêm ngủ chỗ này  tối ở chỗ khác. Những buổi tối trời mưa, đạp xe  đi tìm chỗ tạm trú , mới thấy ngậm ngùi cho câu than thở trời đất bao la rộng lớn mà sao ta chẳng có chốn dung thân. Những buổi chiều nắng quái , đi trong thành phố, mới thấy cảm gíac của một kẻ cô đơn   như con chuột đang cuống cuồng trong lồng giữa cơn  mạt lộ.  Thấy đi tới đâu  cũng gặp những cặp mắt ngại ngùng của những người thân, từ chối thì  không nỡ mà chứa chấp thì bị liên lụy  nên tôi phải tìm một phương cách  để cho qua đêm dài. Thuê phòng trọ hay  khách sạn  cực kỳ nguy hiểm ,  nên chỉ cómột cách là trà trộn vào những người ngủ ngoài đường . Lúc ấy , ở Sài gòn đầy những người ngủ ở hè phố, Họ là những người từ kinh tế mới về chịu không kham sự khổ cực  hay những  người vượt biên hụt trở về nhà bị chiếm. Mà chỗ an toàn nhất là bến xe Ngã Bảy. Ở đây là đường ranh của nhiều phường nên chỉ có một quãng ngắn, ở chỗ này bố ráp thì chỗ kia vẫn bình thường như không có gì xảy ra. Tôi có xem  một video của trung tâm Asia có ghi lại hình ảnh của nhạc sĩ Trúc Phương cũng hoàn cảnh phải ra xa cảng để ngủ qua đêm mà chạnh lòng. Thì ra , ở lúc ấy , có nhiều người chung cảnh ngộ, phải lang thang ngủ đầu đường xó chợ một cách bất đắc dĩ. Bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt, công an lộng hành , bắt người không cần lý do , kinh tế thì lụn bại, ngăn sông cấm chợ,  cả nước nghèo đói không đủ gạo ăn , kỹ nghệ trì trệ không sản xuất được gì đáng kể. Rồi chính sách phân biệt đối xử , giáo dục thì nhồi sọ , hồng nhiều hơn chuyên, thi cử tuyển chọn theo lý lịch hơn là thực  tài,  y tế thì thiếu thuốc men phương tiện và y sĩ trình độ kém lại  làm việc tắc trách.  Thật là một thời  tệ mạt nhất trong lịch sử dân tọc ta.

Ngủ ở bến xe Ngã Bảy, mướn cái chiếu 1 đồng , kiếm một chỗ qua đêm , tôi đã chứng kiến nhiều chuyện.  Có những bà mẹ góp nhóp tiền bạc đi thăm con ở một trại tù nào đó, chờ xe ba bốn ngày, sống lang thang lếch thếch chờ đợi.  Cũng có những người không nhà,  nằm la liệt dưới mái hiên, sinh sống ăn ngủ và làm tình một cách thản nhiên như đang sống trong nhà mình. Cũng có những trai tứ chiếng, những gái giang hồ quanh quẩn kiếm ăn.  Những anh lơ xe, những chị buôn hàng chuyến, những mối tình,  hừng hực xác thịt cứ diễn ra hàng đêm. Rồi những đêm mưa gió, ướt át, những tiếng chửi  than trời trách đất  cứ dòn dã . Hình như, ở gần nỗi khổ, tâm hồn họ bị chai sạn đi. Công an  từ phường này qua phường kia luôn luôn bố ráp nhưng như một trò chơi cút bằt. Áo vàng mũ cối đi qua, chỉ ít lâu sau là đâu vẫn đấy  .

 

“ .. hè phố  rác lạc loài hoa dại

nở buồn tênh phiến gạch ngậm ngùi

cỏ đớn hèn hạt sầu kết trái

ươm bao năm dầu dãi nụ cười

ngủ chợp mắt đèn khuya vụn vỡ

ho khan ai quằn quại phổi khô

tiếng còi hú nhát đinh vỡ sọ

nghiến xe lăn tim nhịp chày vồ

rưng não tủy bầu trời tháng chạp

cành cỏ khô héo mãi phận mình

ở vu vơ ngỡ ngàng tiếng khóc

đêm bến xe tưởng chốn u minh

đường bảy nhánh chỗ nào phải lối

ngủ nơi đâu còi rúc giới nghiêm

như tiếng cú rúc trong huyệt tối

người lao xao cõi tạm cuồng điên

gío nhọn hoắt ngon lành da thịt

mưa giọt  soi mộng dữ chân người

ánh đèn pin mắt ai tội nghiệp

 bờ đá xanh lạnh buốt chăn đời..”

 

Ở  một đất nước  vào thời kỳ mà cây cột đèn nếu đi được  cũng muốn vượt biển , thì  còn con đường nào  khác hơn là thách đố với định mệnh.

Những lần sửa soạn ra đi , tự nhủ hãy đi một vòng thành phố thân yêu để rồi vĩnh biệt không còn gặp lại. Những khúc sông , những cây cầu , những dãy phố , mỗi mỗi đều nhắc đến kỷ niệm và khi sắp sửa ra đi như mất mát một phần đời sống mình.  Có buổi tối ,  đi trong mưa, để tưởng nhớ lại lúc xa xưa, khi bềnh bồng trong cảm giác lãng mạn của một người đi tìm vần thơ.

Mai ta đi xa.  Thôi giã từ thành phố. Lòng đau như cắt  trong lúc giã từ “ ta thắp nến đọc hoài trang sách kể

 

Chuyện người tù vượt ngục suốt một đời

Ta hùng hực cánh buồm chờ gió đẩy

 Sống một ngày thêm thúc giục khôn nguôi

Đã đắp  xóa bao lần cơn mộng biếc

 đường phải đi cho đến lúc xuôi tay

sóng loạn cuồng con thuyền trôi biền biệt

 giăng buồm lên   phương viễn xứ một ngày

Ta cũng biết còn xa vùng đất hứa

Phải đi qua địa ngục chín mươi tầng

 Đời hiện tại xích xiềng  theu bão lửa

 Nỗi niềm riêng còn khóe mắt thương thân

Đã thấm thía ngày qua ngày tù tội

Chim trong lồng mơ  vùng vẫy trời cao

 Cười khinh mạn những chão thừng buộc trói

Về phương đông nơi bến đỗ  tay chào

Mộng ước mãi chiều nao vời cố quận

Chim sẻ ngoan còn ríu rít phố phường

  Loài ác điểu vẫn  gây căm tạo hận

 Bẫy gai chông ngầm phục  ở quê hương

Ta tin tưởng có quỉ thần dẫn lối

 Dù giặc thù vây bủa  cả không trung

 Còn một chén nốc ngụm men vời vợi

 Gió chuyển rồi  thôi  đến lúc lên đường

 Chuyện sinh tử   dỡn chơi  thêm ván cuối

 cạn láng rồi thử thách  với phong ba

 ngôi tinh đẩu  dẫn ta về bến đợi

 đường biển vẽ rối tay lái thẳng lối qua.”

 

Bây giờ, nhiều người trở lại nói thành phố đã đổi khác. Hết rồi, những con đường cũ, những ngõ hẻm xưa. Hết rồi, những tâm tình thuở nào, của một htời trong một đời người. Tôi, có lúc đọc những bài viết cũ, ngắm lại những hình ảnh xưa, lại nhói đau như vừa đánh mất một điều gì trân quí. Thôi vĩnh biệt sài Gòn, tiếng kêu thảng thốt  của người vừa đánh mất một phần đời sống mình…