Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

NÓI VỀ THƠ , NGUYÊN SA…

 

NGUYỄN MẠNH TRINH

 

Thi sĩ  Nguyên Sa nói chuyện về thơ ? Hồi nào?  Dường như thi sĩ đã  đi vào miền vĩnh hằng ngày 18 tháng tư năm 1998 rồi mà ! Thì , làm sao hôm nay , bây giờ  có thể nói chuyện với chúng ta về thơ được ? Thế mà , với tôi,  giở lại những trang hồi ký , như đang tiếp tục câu chuyện về thi ca, về những bài thơ mà có người phê bình là những “ châu báu bắt được của trời”.

Nguyên Sa  một đời làm thơ và sống chết với  thơ . Khi ông đang nằm trên giường bệnh , dù đang thập tử nhất sinh ông vẫn lo lắng để chuẩn bị cho in tập thơ “ Thơ Nguyên  Sa  tập 4 “.  Thơ với ông là  một vũ trụ mênh mông  mà cuộc sống vẫn còn dù thân xác có bị hủy hoai theo luật thiên nhiên.

Thơ Nguyên Sa không phải chỉ thuần túy thi ca mà còn chất chứa  cuộc sống  thực  tế    và cả những ước mơ nữa . Như , câu phê bình của tổng thống Ngô ĐÌnh Diệm  về một giáo sư trẻ Trần Bích Lan mà bác sĩ Trần Kim Tuyến đã kể lại : “ ông cụ bảo cậu lãng mạn “ . Có phải  tâm tính lãng mạn là luôn luôn nuôi dưỡng những giấc mơ?. Quả thực , trong suy nghĩ biểu hiện bằng  ngôn ngữ  thi ca , Nguyên Sa là một người làm thơ lãng mạn.

Đọc những trang hồi ký , nghe thi sĩ nhắc lại những bài thơ và những trường hợp đã có cảm hứng để viết ,   mới thấy câu nhận định trên là chính xác. Những bài thơ, dù viết ở đâu , từ lúc đất nước thanh bình đến khi trời làm tao loạn, hay lúc lưu lav xứ người ,  thơ vẫn là  những biểu tượng của một cuộc sống tràn đầy ước mơ.

Giữa con người thực dụng  và con người viễn mơ, có lẽ triết lý đã điều hòa cả hai để có một  chân dung thi  sĩ . Triết  học không lấn áp thi ca mà trái lại làm cho ngôn ngữ thơ có sắc thái riêng. 

Thi sĩ viết:” Tôi cũng nhớ , ngay lúc đó, khi đọc bài văn nói về văn chương viễn mơ của Mai Thảo , một năm trước, tôi thấy văn chương viễn mơ không phải là mục tiêu mà tôi nhắm tới , văn  chương viễn mơ không phải là tôi.. Tôi mơ hồ cảm thấy làm thơ mà cứ phải dấn thân triền miên thì.. mệt quá ! Nhưng tôi cũng không muốn sống , trong cuộc đời cũng như trong tác phẩm, cắt lìa khỏi , một cách thường hằng, mọi đam mê của đời sống. Tôi mơ hồ cảm thấy những lý luận thuần lý, những triết học nhất quán , những lô gic chặt chẽ  và thơ có một khoảng cách . Dường như , càng xa lý thuyết thơ càng nhiều thơ, ccàng cột chặt hồn mình vào lô gíc , thơ càng ít thơ hơn. Tôi đọc , tôi đọc . Tôi sửa lại một chữ , rồi một chữ khác Tôi mơ hồ cảm thấy tôi   không muốn trở thành một nhà thơ dấn thân . Tôi cũng mơ hồ  cảm thấy tôi không phải là một đệ tử trung thành  của nghệ thuật vị nghệ thuật. Tôi là người làm thơ tình mà vẫn xúc động trước những khổ đau của quê hương , dân tộc tôi.”

Có những bài thơ viết về Paris, như một kỷ niệm trong đời. Thành phố , nhắc đến những người bạn và những cuộc giã từ , Ra đi nhưng để tấm lòng mình ở lại.  Những dòng hồi ký không những là nhớ lại mà còn làm sống lại những ngày tháng ấy. Một đoạn đời hóa sinh vào thơ , mơ mộng và diễm ảo. Thơ .  Là dấu ấn cho lãng mạn dâng cao :

“ .. Tôi thấy  tôi và những tôi cầm tay bạn bè bịn rịn , tôi thấy tôi và những tôi từ trên thang cao của máy bay vẫy tay lần cuối , tôi thấy ngọn đèn đêm  của Eiffel quét những đường sáng dài vẫy tay. Những Tiễn Biệt, những Paris  Có Gì Lạ Không Em, từ bóng đêm của vô thức và sương mù dắt tay sông Seine đi tới.

 

Paris có gì lạ không em

Mai anh về em có còn ngoan

Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ

Em có tìm anh trong  cánh chim

Paris có gì lạ không em

Mai anh về giữa bến sông seine

Anh về giữa một dòng sông trắng

Là áo sương mù hay áo em

Em có còn đứng ở bên bờ sông

Làm ơn che khuất nửa vầng trăng

Anh về có nương theo dòng nước

Anh sẽ tìm em trong bóng trăng..

 

Những điệp khúc” Paris có gì lạ không em” đặt ra những câu hỏi  để dẫn về những nơi chốn  mới đây gần gũi mà bây giờ xa biệt. Hoa lá để nhớ đến cánh chim, dòng sông mù sương trắng nhớ đến áo em huyền ảo  cũng như vầng trăng in dưới dòng nước nhắc nhở đến   mường tượng  em trong bóng trăng. Thiên nhiên là của kỷ niệm nhắc nhở , mỗi mỗi khi nhớ là tìm lại được những hình ảnh mới của Em , của người tình của một thành phố  như đã thành cổ tích…

Một bài thơ khác , của một thành phố khác , của đất nước Việt Nam , mà bây giờ lại xa cách trong cảm giác lãng đãng của nhửng câu thơ bềnh bồng. Sài Gòn , thành phố mà trong bộ nhớ nhiều người đầy ắp những kỷ niệm . Có khi là của lúc xôn xao thời mới lớn , có khi là của những ngày chiến tranh , của những ngày phép của người lính trẻ , của một thời của một đời người . Nguyên Sa làm bài thơ “ Tám phố Sài Gòn “ trong cái khí hậu văn học của một thời  nhiều  sôi động. Thi sĩ đã viết về một trường hợp sáng tác:

“.. Nguyễn Đình Vượng nói tôi muốn Nguyên Sa cho Văn một bài thơ, tôi hỏi thơ hay văn xuôi, anh Vượng nói rõ thơ, tôi ngập ngừng rồi nêu lên câu hỏi:

-Thơ Xuân?

Nguyễn Đình Vượng gật đầu vững chắc:

-Thơ Xuân.

Anh chỉ khẳng định chính xác như thế trong một giây ngắn, anh mau chóng đưa ra chọn lựa thoải mái hơn:

-Thơ Xuân .. Hay thơ gì cũng được.

Tôi vui vẻ nhận lời, mấy hôm sau tôi mang tới tòa soạn Văn bài “ Tám phố Sài gòn”..”

Tám Phố Sài Gòn , là những câu thơ của bồi hồi về một thánh địa  tình yêu , của những xúc cảm thoáng qua , của những hình ảnh đẹp khó quên trong bộ nhớ . Tôi yêu Sài Gòn nên yêu những câu thơ  mang đến cho tôi một thời gian , không gian  “ thiêng liêng “ , của cả một thời thơ ấu và trưởng thành riêng tôi. Và , rất lạ lùng , nhiều người đọc thơ cũng cùng chung những xúc cảm những suy nghĩ như thế. Thơ   của một người nhưng hình như là của riêng nhiều người. Khi nhắc lại , là một trùng trùng đại dương xao động . Sài Gòn . Vẫn còn,  nhưng

 như đã mất . Trong tôi.. 

Đọc những bài thơ như Tám Phố Sài gòn , như Ao Lụa Hà Đông, trong khi lái xe , lúc ở sở làm hay mơ mộng một mình trong phòng đọc sách  ở nhà  nhìn ra biển và bầu trời, lúc nào cũng như lúc nào , thấy mình sống lại những phận đời , hồi sinh lại những nỗi nhớ trong cái xúc cảm mơ hồ của một người đi phiêu du ở một chốn nào mà suy nghĩ mãi ngân vang như những sợi đàn căng rưng rưng những âm vận trùng trùng nhung nhớ .

Viết về thơ của mình , thi sĩ Nguyên Sa  tâm sự :

“..Tôi không muốn đi, tôi muốn ở lại, tôi gọi trở về quê hương là đi, tôi gọi tới Paris là về. Tình yêu của tôi ở đó, phần đời có trọng lượng của toàn thể của tôi ở đó. Cảm xúc lớn lao, gioa động cực mạnh mang lại hàng loạt những bài thơ về biệt ly.Paris có gì lạ không em, Tiễn biệt , Paris.Tôi khởi sự thơ với chủ đề ly biệt. Tôi bắt đầu cùng lúc những bài tình ái  và những bài biệt ly. Cũng có thể nói được như thế. Thơ chủ đề biệt ly và thơ chủ đề tình yêu đến gần như trong cùng một thời gian. Xen kẽ . Hỗ trợ . Trong thơ tình có khắc khoải  chia xa. Trong Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Paris  có gục đầu trên vai nhau. Nga đầy ắp Paris là bài thơ tình đầu tiên, sau đó là Tuổi Mười  Ba , của thời kỳ Paris gục đầu trên vai nhau. Paris tiễn nhau ở  gare De Lyon, ở phi trường Orly, Ao Lụa hà Đông, Tháng Sáu trời Mưa, Cần Thiết  của Sài Gòn 1956 và những năm kế tiếp, Nga 1955,  Tiễn biệt đầu tiên. 1953, hai bài Paris 54 và 55. Thơ tình của những ngày tháng hôn nhân đến trước thơ tình của tuổi học trò.  Ao Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Tháng Sáu Trời Mưa  trình làng ở Sáng Tạo , khi đã trở về Việt Nam , làm khoảng thời gian 56-57. Nga in trên tờ thiệp báo hỷ , bài thơ  tương đối dài làm cho người bạn ấn loát in tặng phải chọn lựa tờ giấy lớn hơn thiệp báo hỷ  rồi gấp lại làm ba. Tờ thiệp báo hỷ của tôi in trên khổ giấy năm rưỡi  tám rưỡi , giấy bảy chục gam , loại láng, in chữ nghiêng, tới chữ O  của “ môi em tròn như chữ O” câu thơ in nghiêng, anh bạn ấn công chỉ cho tôi thấy chữ O anh đã chọn kiệu chữ thẳng , rất tượng hình thơ …”

Nguyên Sa còn làm thơ về những ngày ở lính và chiến tranh ở đây đã được nhìn ngắm  với con mắt của người trong cuộc.  Một cuộc chơi tàn bạo được bày ra với tất cả những sự phi lý của nó. Những người tham dự , dù tình nguyện hay bắt buộc , cũng bị lôi đi trong con lốc mịt mờ của thời thế.  Đọc bài thơ Sân bắn , để thấy được tâm tư của một người trong cuộc. Một cách tình cờ , bài thơ được viết ra trong một khung cảnh yên bình của Sài Gòn buổi chiều nhưng lại là những cảm giác từ quân trường , nơi sân bắn có hình nhân phơ phất , có tiếng kêu “ Bia lên”  để làm đích đến cho những viên đạn vô tình :

“.. Tôi không có ý định làm bài lục bát đó, tự nó tới , bật ra. Tôi dừng xe lại ở Bưu Điện Sài Gòn , hí hoáy ghi lại Sân Bắn. Con trai tôi từ trong trường Taberd đi ra , trèo lên băng sau của chiếc Wolkswagen, chờ tôi lái đi. Tôi chép cũng vừa xong. SânBắn  được đăng trên một tạp chí ở Sài Gòn  trong thời điểm đó, được in trong Thơ Nguyên Sa tập  Hai, hai mươi năm sau, năm 1988 ở Quận Cam.

 

Sân Bắn

Bia lên ta thấy thân người

Thấy ta thấy địch , thấy đời lãng du

Thấy tay dư , thấy chân thừa

Thấy tai nghễnh ngãng , mắt mù óc không..

Một đời phơ phất hình nhân

Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau

Bia lên thấy mẹ u sầu

Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta

Trời cao ngó xuống thịt da

Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh

Bia lên tìm chỗ ta nằm

Non cao duỗi cẳng em còn thấy đâu

Hầm bia buồn đến mộ sâu

Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay.

 

Và nhà thơ đã viết vê những suy nghĩ và cảm xúc của mình để bật lên thành thơ.:

“Khi Sân Bắn , thơ, đến với tôi, bia cũng tới, đầu tiên., không có chân tay, cảm xúc của thơ mang cho Sân bắn thơ thêm hình ảnh của ta, của địch , thân phận con người, sự vong thân của bản ngã..

Bầu trời của Sân bắn có bia lên , có thân người , có ta, có địch, có tay chân thừa thãi , có tác dụng của xạ trường đến nơi thính giác và cả trí tuệ. Óc tai, hình nhân , giấy bồi, hầm bia, đạn đầu lửa bay trong những buổi thực tập tác xạ ban đêm. Tôi biết kỹ thuật thi nhân từ trước khi thực hiện Sân Bắn, từ lâu. Cũng như nhiều người làm thơ, tôi có một thời kỳ lục bát  buổi đầu đời. Thi nhân vừa dẫn bài thơ vô, vừa dẫn từ câu này qua câu kia từ đoạn này sang đoạn khác . Luận lý của suy luận là do đó, là cho nên, là vậy thì. Có thể là tất cả những từ đó và những từ  tương tự khác cùng loại.

 

Tất cả mọi người đều phải chết

Socrate là người

Socrate phải chết

 

Chân lý của kết luận chứa ẩn trong những đại tiền đề. Chân lý của tiền đề , bằng những do đó, là vậy thì, là cho nên , đi tới kết luận . Nói rõ ra cũng tốt, không nói tới cũng tốt. Từ ngữ hiện hay ẩn đưa tới kết luận là đưa tới chân lý tất yếu đã nằm trong những tiền đề. Thi nhân của thơ đưa tới những kết luận khác biệt, không tiên liệu trước được, nhảy qua trùng điệp những đồi núi , những bình nguyên rơi xuống một miền đất của riêng. Bia lên mở ra thân người, mở ra thế giới mà khoảng cách giữa ta và địch  bị tiêu hủy bởi cái chết , mở ra sự thừa thãi của tay chân, sự bất lực của giác quan và trí tuệ. Trong Sân Bắn, hti nhân hơn một nửa làm nhiệm vụ của liên tự, nó cho phép nói nhiều với ít chữ hơn.

Bầu trời của   thơ không phải là bầu trời của  sân bắn xạ trường . Bầu trời Sân Bắn thơ có những đám mây của nó, có vài phần  vật liệu từ hơi nước bay lên, nhưng lại có nhiều phần mây có màu sắc bay tới từ thế giới nội tâm, có những đám mây màu sắc tình cảm, đám mây màu sắc suy tư, đám mây màu ngậm ngùi thân phận.

Chủ nghĩa tả chân và những anh em của nó, như tả chân xã hội, khó lòng mang lại bầu trời thơ, vì không gian của nó hạn hẹp , chỉ có mây của nước bốc hơi, không có chỗ nào cho những đám mây tuyệt vời kia.” 

 Thơ, với thi sĩ , không phải là một trò chơi nữa , mà trở thành một cách thế sống , của da thịt xương tủy hiện hữu tháng ngày.  Những câu hỏi bật ra từ quá khứ . Từ tuổi nhỏ đã phải chịu những tháng ngày tù ngục đọa dầy của Cộng sản  , rồi thoát được , đi du học , rồi trở về nước , dậy học và rồi lại lưu lạc xứ người trong những tháng  năm còn lại. Bao nhiêu là dấu ấn đã in đậm trên những trang thơ. Những dấu ấn của thời thế. Những dấu ấn của tình yêu . Thành ngôn ngữ , thành  hình ảnh , thành  vần điệu để như những  tần số cùng âm hưởng giao thoa với tất cả những chất chứa của thời đại , của cả một thế hệ cứ mải miết hoài trong vòng cuồng loạn của dông tố chiến tranh.

Với Nguyên Sa , chiến tranh là một thực tế của đất nước.Và thơ của ông phần nào biểu lộ cái thực tế ấy . Những bài thơ như Cầu Siêu Cho Nguyễn Quan Đại Chết Ở Khe Sanh,  Thằng  Sỹ Chết , Thơ Cho Bạn Ở Trong Tù Trong Tù,  Cắt Tóc An Tết ,… Có chút bi phẫn, có  chút suy tưởng nhưng hình như là biểu lộ chân thực tình cảm  của một người sống  trong thời đại đầy nhiễu nhương , nhiều  biến cố .

Trong “ Thư cho bạn ở tù” , những câu lục bát  chân thành về nỗi đau thời thế :

 

Bây giờ mày ở trong tù

Đêm nằm muỗi cắn nhớ nhà không con

Chúng nó nói chuyện văn chương

Tao nghe nóng mặt cởi quần nhìn sông…

… Tao đi lính được bốn năm

mày nghe chuyện lính tưởng rằng tao gân

tưởng tao trấn thủ lưu đồn

một tay cờ kiếm anh hùng chí cao

 bốn năm thi sĩ nằm khoèo

rượu say thơ cũng mệt nhoài tứ chi

quanh tao vẫn một lũ hề

những thằng mang điếu vác cờ chạy quanh..”

 

Thi sĩ đã viết vế một bài thơ khác , viết về mùa xuân , nhan đề cũng xuân nhưng không có nét  xuân hồng nào ở trong : Cắt Tóc Ăn Tết

 

Cắt cho ta hãy cắt cho ta

Cắt cho ta sợi dài

Cắt cho ta sợi ngắn

Cắt cái sợi nói dối

Sợi ăn cắp trên đầu

Sợi vu oan dưới gáy

Sợi bè phái đâm ngang

Sợi  ghen tuông đứng dọc

Sợi xích chiến xa, sợi giây thòng lọng

Sợi hưu chiến mỏng manh, sợi hận thù buộc chặt

Sợi nấp trong hầm

Sợi ngồi trong hố

Sợi đau xót như giây dù chẳng mở

Sợi treo cổ tình yêu, sợi trói tay hy vọng..”

 

Nhưng , những bài thơ sống mãi của Nguyên Sa vẫn là thơ tình yêu. Những bài thơ như Ao Lụa Hà Đông, như  Tuổi Mười Ba , như  Tám  Phố Sài Gòn , như Paris Có Gì lạ Không Em,…đã vượt qua không gian , thời gian để sống mãi . Thậm chí , nó còn vượt qua những chiến tuyến , qua những định kiến chính trị để thành một gia sản quý báu của văn chương  dân tộc Việt Nam. Thế mà , khi viết hồi ký , ông lại ít đề cập tới . Không hiểu có phải là phản ảnh tâm lý mà ông đã nói trong cuộc phỏng vấn trước tám năm ngày ông từ trần :

“Đề tài tình yêu thường thay đổi theo thời gian.. trước năm 1963 , tình yêu đó thuần túy những cảm xúc , những đam mê. Đó là niềm đam mê , lúc tin tưởng mạnh mẽ, lúc rụt rè thắc mắc , lúc muốn ngỏ lời, lúc không dam 1ngỏ. Nhưng về sau lúc người ta 50, 60 tuổi, đam mê tình ái không còn nữa , như xao xuyến về một at áo trong sân trường, như bồi hồi vì một mái tóc xõa ngang vai, không có nữa . Thời gian xóa bỏ nhiều thứ . Tình yêu có bóng dang của sự buồn phiền xót xa  vì thời gian trôi qua. Và ngậm ngùi nhận ra rằng  việc chấm dứt cho tất cả mọi sự sẽ phải tới. Khi nào suy nghĩ ấy xen lẫn trong đời sống trong tình yêu trong thơ, tất cả sẽ chán chường . Võ sĩ lên đài mà không nghĩ đến chiến thắng đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết gần tới thì chắc chắn  quả đấm của võ sĩ ấy phải khác với một võ sĩ chỉ nghĩ đến cách thế để cho đối thủ quỵ ngã. Đối với tôi tâm sự về tình yêu lúc 50 tuổi trở lên như võ sĩ lên đài  thay vì chiến đấu mãnh liệt say mê  thì lại đưa quả đấm giơ lên rồi bỏ xuống.Tư tưởng cái chết ám ảnh mạnh mẽ tình yêu..”

Dù rằng thi sĩ đã hiểu : 

 

Cuộc đời dẫu có phù vân

Ở trong mây nổi có phần thiên thu

 

Nhưng những câu thơ đã để lại cho đời sau là những câu hỏi để mở cửa bước vào cõi thơ ,  như Cần Thiết : “Không có anh lấy ai đưa em đi học về/ lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học/ ai lau mắt cho em ngồi khóc / ai đưa em đi chơi trong chiều mưa?/..”; như  “ Paris có gì lạ không em?/mai anh về mắt vẫn lánh đen/vẫn hỏi lòng mình là hương cốm?chả biết tay ai làm lá sen??..”; ‘ em ở đâu ?, hỡi mùa thu tóc ngắn/giữ hộ  anh màu áo lụa Hà Đông/anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng/ giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng/…”. Ơi , những câu hỏi để thành những câu thơ bất tử của văn chương Việt Nam thế kỷ 20… Và tôi cũng như nghe thấy câu hỏi , được khắc lên trên bia mộ của một thi sĩ lớn:

 

Nằm chơi ở góc rừng này

Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang

Xin em một sợi tóc vàng

Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau

Biết đâu thảo mộc bớt đau?

Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?

 

Vâng , biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?