Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

NGUYỄN HIẾN LÊ,

KẺ SĨ TRONG

THỜI ĐẠI CHÚNG TA

 

NGUYỄN MẠNH TRINH

 

Nguyễn Hiến Lê,  một tác  giả của hơn một trăm cuốn sách ,  một nhà biên khảo có nhiều công trình to lớn, một dịch giả   chuyển ngữ được những tinh túy văn chương ra Việt ngữ,  một  học giả được nhiều nể trọng của văn giới, và cũng là một người đã trung thực  khi viết hồi ký. Đọc những tác phẩm về văn học, về triết học, về xã hội học, về sử học, về ngôn ngữ học,  hay các sách học làm người, chúng ta mới thấy được sự sâu sắc  phong phú nhưng lại được diễn tả bằng một văn phong  rõ ràng chính xác nhưng đơn giản  nên nhiều vấn đề khúc mắc phức tạp  trở thành dễ hiểu. Thế mà , ông lại khiêm tốn nói rằng ông cầm bút viết để tự học  hỏi . Không biết có phải đó là một điển hình kẻ sĩ  để mấy vị hay cao ngạo khoe khoang phải suy nghĩ?

Đọc hồi ký “Đời Viết Văn của Tôi”, chúng ta thấy được gì ? Có phải qua những tác phẩm, ông muốn bày tỏ tấm lòng của mình với văn  chương chữ nghĩa. Nhìn và quan sát người khác dễ hơn là quan sát nhận định về chính mình.  Ông cũng hiểu rất rõ điều ấy và trong phần mở đầu cuốn hồi ký  ông đã rất khiêm nhượng:

“… Chép hồi ký về đời mình, lại càng  dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu lên những cái hay của mình  mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xáu của mình  ra thì nếu không phải do lòng tự cao cũng là để tự biện hộ. Dù là tập  Confessions  của JJ Rousseau hay tập  Autobiography của  Bertrand Russel thì cũng chỉ đáng tin một phần nào mà thôi.

Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết những điều tôi  đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép lại tứ 1974 , đầu năm 1975 , thì nội dung âtt khác bây giờ nhiều, nếu trái lại tôi được sống  đến năm 1985-1990  và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại khác, có thể khác xa nữa .

Tôi đã ghi tình cảm suy tư của tôi lúc này về một số ciệc đã xảy ra  trong đời tôi mà tôi đã được nghe và thấy. Có nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thực  , hoặc bỏ sót , điều đó không sao tránh được . Lỗi ở ký tính con người, nó bị tình cảm sai khiến , lại thêm ở tuổi bảy mươi như tôi, nó suy giảm nhiều rồi..”

Ơ trong nước vừa in Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê,  gồm bốn cuốn bìa cứng toàn bộ gần bốn ngàn trang  với   Tập 1: Triết  học, Tập 2: Sử học , Tập 3 : Ngữ học và Tập 4:  Văn học. Thật ra , như vậy vẫn chưa đầy đủ lắm với văn nghiệp của ông. Vẫn còn nhiều thiếu sót, dù bộ sách đã có bề dầy.  Những công trình của ông , là những tài liệu khả tín cho những người lớp sau  để có thể phác họa  ra được một thực tế  văn học của một thời đại nhiều đặc biệt.

Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912  và trong suốt cuộc đời đã trải qua rất nhiều biến cố của đất nước và dân tộc Việt Nam.   Ông lớn lên khi   lối học cổ điển “ chi hồ dã dã “bị suy vi và  trường học  đã  dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp . Ông cũng có một thời học chữ  Nho và sau đó vào trường học.  Người cha mất sớm nên trong gia đình mẹ góa con côi có lúc ông đã lêu lổng trốn học nhưng sau đó lại tu tỉnh  và học hành tiến bộ hơn. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục  và  đó cũng là một điểm đặc biệt của ông.

Nguyễn Ngu  Ý  trong   "Sống và Viết" đã có nhận định về Nguyễn Hiến Lê:

“Trong làng văn nước nhà , có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh : trên mười năm trời và  thời hậu chiến chưa có tác giả nào viết, dịch đều và có sách xuất bản nhiều  như anh; bốn mươi ba quyển đã in và có  độ một chục cuốn đang in hoặc sẽ in. Anh cũng lại là nhà văn  mà nhiều người thăc 1mắc. Đã có hơn một người hỏi tôi

-Anh Lê thuộc về lớp cổ hay lớp mới?

Quen anh trên mười năm mà tôi chưa từng tự hỏi như vậy bao giờ và tôi đã lúng túng không trả lời được.

Cứ xét lối làm việc thì anh là người mới:  có tổ chức , có phương pháp  như một nhà khoa học; nhưng xét lối sống , lối cư xử  thì lại như một người cổ : thanh bạch , giản dị , chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là sự ồn ào của danh vọng; tính tình có vẻ như hơi nghiêm ; đối với bạn bè thì chân thành nhưng cũng có cái vẻ đạm mạc của nhà Nho. Sách anh viết  và dịch thì có  những cuốn về tân kiến thức như thuật về Tổ Chức , về Tân Giáo Dục , về ngữ pháp, về kinh tế ( học thuyết Fourastié ); về Chính Trị ( cuốn Xung Đột trong Đời Sống Quốc Tế); mà lại có  những cuốn về cổ học  như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc  hay Đại Cương  Triết Học Trung Quốc. Anh rất trọng cái thực học mà có lúc đề cao đạo học; trọng lối tổ chức làm việc của Au Mỹ  mà lại ghét lối sống Au Mỹ  thích cái tinh thần  tri túc , thanh đạm của  phương Đông. Trong cuốn Một Niềm Tin  anh khuyên thanh niên  phải xằn tay áo  và thắt bụng lại, sản xuất gấp đôi mà tiêu pha bớt đi để nước nhà mới có cơ thịnh vượng được; nhưng riêng anh có nhiều cơ hội làm giàu  một cách lương thiện  thì anh lại gạt đi.Anh viết cuốn” Tổ Chức Công Việc  theo Khoa Học”  rồi lại dịch cuốn “The Importance  of Living” (Một quan niệm sống đẹp) của Lâm Ngữ Đường. Anh rất thích  ít bài cổ văn Trung Quốc  như Aphòng  Cung phú , Đằng Vương Các Tự, Bắc Sơn Di Văn  mà lại cũng rất thích các tác giả mới  như Marcel Proust. Anh theo dõi những trào lưu tư tưởng mới  cảu thế giới  mà cũng vẫn đọc những tác phẩm của cổ nhân, đọc cả sách  về Đông Y, về Tử Vi, Tử Bình, bói Dã Hạc, về Địa lý (môn phong thủy  hồi xưa, mà đọc trong bản chữ Hán , đọc để biết. Văn anh viết có bài nửa biền nửa tản  như bài Hương Sắc Trong  Vườn Văn, có đoạn lại làm gợi nhớ tới lối hành văn của Michel Butor  như đoạn cuối bài Đuổi Bắt Ao Anh , nhưng xét chung thì anh rất ưa sự bình dị.

Cho nên bảo anh là cổ  thì không đúng, mà bảo anh là mới thì anh cũng không mới hẳn. Anh có mâu thuẫn với anh chăng?Trong con người anh có hai phần  chăng? Một phần chịu ảnh hưởng của gia đình, một phần chịu ảnh hưởng của học đường chăng?Nhưng bảo là mâu thuẫn thì có đúng không? Thế nào là mâu thuẫn? Thế nào là dung hòa? Tôi không biết được mà có lần đem ra hỏi  lại anh , thì anh cũng không trả lời được, cho rằng đó là tùy theo nhận xét của mỗi người...”

Với tôi, tôi ngưỡng phục tác phẩm của ông . Với cách trình bày trong sáng , đơn giản nhưng không qua loa , người đọc dễ lãnh hội được những điều mà tác gỉa gửi gấm trong chữ viết . Và bàng bạc, trong chữ nghĩa, trong ý tưởng là cái tâm thẳng thắn và  ý hướng  giúp những người muốn học hỏi có dịp để đạt  cho bằng được những kiến thức  cần thiết cho đời sống.

Nhưng , tôi không thích ông ở ý hướng chính trị.  Sống   ở miền Nam nhưng lòng ông lại hướng về miền Bắc .  Trong hồi ký ông viết  :

“Cho tới năm 1974 tôi đã được biết ba xã hội: xã hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xã hội tư bnả của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp  và vài nét xã hội tiêu thụ (societé de consommation) ở thời hậu kỹ nghệ (post-industriel) của Mỹ; ba xã hội đó tôi đã phác qua  trong các phần trên . Từ năm 1975 tôi lại được biết thêm một xã hội nữa mà người ta gọi là xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với Cộng Sản , ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nhìn  của Pháp, Mỹ. Tôi phục  tinh thần hy sinh có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có htể  giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp..”

Ông Nguyễn Hiến Lê đã viết thẳng thắn ra như vậy. Ông vẫn còn bị chiêu bài kháng chiến chống  thực dân  lôi cuốn mà không nhìn ra cái nguyên do của cuộc chiến ủy nhiệm của các thế lực cường quốc trên thế giới gây ra cuộc nội chiến tương tàn nối da xáo thịt. Cái tâm lý ấy khá thông thường với người miền Nam  chưa bị nếm mùi  cải cách ruộng đất , chưa  bị đảng trị một cách lộ liễu như ở miền Bắc.

 Một hành động chống đối bất hợp tác với chính quyền VNCH  là ông đã từ chối Giải Tuyên Dương Sự Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm 1973  của Phủ Quốc Vụ Khanh  Văn Hóa. Cũng như trước đó ông đã từ chối  Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 khi ông được giải cùng với ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông từ chối với lý do là dùng hiện kim ấy để giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc và bản thân ông không tham dự giải. ..

Nhưng , sau khi đã sống với chế độ Cộng sản  từ sau năm 1975 . Ông nhận ra được  sự thực và trong cuốn hồi ký đã giành ra  một phần khá quan trọng  nhận xét về thực trạng xã hội Việt  Nam .  Phần viết trong hồi ký ấy  chỉ có bản im ở hải ngoại do nhà xuất bnả Văn Nghệ của ông Từ  Mẫn Võ Thắng Tiết là có , còn bản in ở trong nước của nhà xuất bản Hội Nhà Văn thì bị cắt xén và “ biên  tập” tơi bời…

Trong Tự Điển Văn học (bộ mới)   xuất bnả ở Sai Gòn năm 1992 ,  Nguyễn Q. Thắng đã tóm gọn sự nghiệp văn học của ông Nguyễn Hiến Lê    như sau:

 “ Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ  về cácd đối tượng, sâu sắc về các vấn đề  được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật.

Tác phẩm của ông bao gồm nhiều chủ đề như:

1. Văn học : Gồm một số tác phẩm đặc sắc  và công phu như Hương Sắc Trong Vườn Văn( 2 cuốn , 1962) Luyện  Văn ( 3 cuốn , 1953) , Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc ( 3 cuốn, 1954-1966) ,Tô Đông Pha(1970).. giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc  cũng như nghệ thuật văn chương Việt Nam.

2. Ngôn ngữ học:Để Hiểu Văn Phạm (1952) , Khảo Luận về ngữ pháp Việt Nma (1963) Chúng Tôi Tập viết Tiếng việt.. có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam  đồng thời vận dụng được những tiến bộ mới nhất của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng việt.

3. Triết Học:  Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc ( 2 cuốin 1966) Nho Giáo Một Triết Lý Chính Trị(1958), Liệt Tử  và Dương Tử (1972) một Lương Tâm Nổi Loạn (1970), Bertrand Russel(1971) .. trình bày được một hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa  cũng như những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây Phương hiện đại.

4. Sử Học:  Gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như: Lịch Sử Thế Giới (4 cuốn , 1955), Bài Học Isarael (1968) ,Bán Đảo Ả Rập(1969) , Bí Mật Dầu Lửa (1969) Bài Học Của Lịch Sử( 19720, Nguồn Gốc Văn Minh(1974) , Văn Minh Ả Rập 91969) Sử ký Tư Mã Thiên (1970), Chiến Quốc Sách(1968) ,Đông Kinh Nghĩa Thục(1954), Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1982) .. là những cái nhìn xuyên suốt về lịch sử  văn minh sử thế giới và lịch sử  cận đại ViệtNam.

5. Gương Danh nhân:  gồm có một số tác phẩm  viết về Gương hy Sinh(1962), Gương Kiên Nhẫn(1964) Gương Chiến Đấu(1966) Ý Chí Sắt Đá (1971), Những Cuộc Đời Ngoại Hạng(1970), Einstein(1971).. là những  bài học thiết thực  cho nhiều lớp người nhất là thnah phần thanh thiếu niên đang ở ngưỡng cửa của cuộc đời.

6. Giáo Dục: trình bày những quan điểm về giáo dục  về các lớp tuổi trong đời sống gia đình Việt Nam Loiạ này gồm: Thế Hệ Ngày Mai(1953), Tìm Hiểu Con Chúng Ta (1966) Tự Học Để Thành Công (1954) Tự Học Một Nhu Cầu Của Thời Đại (1964), Làm ConNênNhớ  (1968), Sống 24 Giờ (1956)

7. Tự luyện đức trí:  Tác giả vừa dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục  có tính cách xã hội như Tương lai Trong Tay Ta (1962), Luyện Lý Trí(1965), Rèn Nghị Lực(1956) , Ý Cao Tình Đẹp (1967) Loại này có trên hơn 20 cuốn  có giá trị . Trước năm 1975 số ấn bản lên đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản trong toàn quốc đang tiếp tục tái bản.

8. Cảo luận : là một số chuyên đề về văn chương, văn hóa , văn nghệ như Nghề Viết Văn(1956), Vấn Đề Xây Dựng Văn Hóa (1967), Mười Câu Chuyện Văn Chương(1975), Con Đường Hòa Bình(1971) là những đóng góp sáng giá của ông vào văn chương đạo đức và cảm thụ học thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.

9. Dịch thuật: Nguyễn hiến Lê có một khả năng dịch thuật rất sung mãn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến khi cuối đời ông có hằng chục công trình dịch thuật sáng giá  nhất là các bộ tiểu thuyết lớn phương Tây như Chiến Tranh và Hòa Bình (4 cuốn, 1968), cầu trên Sông Drina( 1972) ,Câu Chuyện Thương Tâm (1956) Kiếp Người (1962), Một Mùa Hè Vắng Bóng Chim(1990), Cổ Văn Trung Quốc.. và một số lượng tác phẩm biên khảo viết bằng chữ Pháp , chữ Hán  cổ cận thế giới.

10. Du Ký : gồm một số quyển ghi chép lại  các lần đi thực địa  ở các địa phương. Loại  này không phải là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực  cho khoa học tự nhiên , xã hội , văn học nữa  như Bảy Ngày trong Đồng Tháp Mười(1954) ,Đế ThiênĐế Thích.. cùng một số sách về Quản Trị công nghiệp, kinh tế , gióa khoa toán, Bên cạnh ông còn viết hơn 300 chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành ( trong các tạp chí ở Sài Gòn trước 1975) ..”

Thật  là một công trình văn học nghệ thuật đồ sộ .  Ông là một học giả có nhiều uy tín trong giới trí thức  và sau năm 1975 , chế độ Cộng sản  cũng có nhiều cư xử đặc biệt với ông. Những người như ông , như Bình Nguyên Lộc  được níu kéo  để tham gia vào sinh hoạt văn học nhưng  đều bị cự tuyệt một cách khéo léo.

Năm 1981 ,  ông Nguyễn Hiến Lê viết xong bộ hồi ký. Ơ trong nước, nhà xuất bản Văn học in năm 1993. Ở hải ngoại , nhà xuất bản Văn nghệ của ông từ mẫn Võ Thắng Tiết in ra làm ba tập. Tập 1 xuất bản năm  1990, tập 2 xuất bản năm 1990 , và tập 3 xuất bản năm 1988. So sánh hai bảm in ở trong nước  và ở hải ngoại , thấy sự khác biệt rất lớn. Bản  in ở hải ngoại thì tôn trọng bản thảo không sửa chữa nào quan trọng trong khi bản in ở trong nước thì bị cắt xén và “ biên  tập “ tơi bời,  nhất là những nhận định trung thực của tác giả Nguyễn Hiến Lê về tình trạng văn hóa , xã hôi , chính trị , kinh tế ở trong nước.  Ông phê phán chính xác , nói có sách mách có chứng và bằng chứng  là  chính  thực tế  của cuộc sống. Do đó , bản ở trong nước không co những phần ấy  là một điều cố nhiên của  nền văn học  hiện thực xã hội chủ nghĩa .

Trước 1975,   ông đã đọc những bài tố Cộng cũng như đã nghe những người từ Bắc di cư vào  Nam kể lại thời cải cách ruộng đất.  Hay đã đọc những cuốn sách viết  về đời sống ở Nga , với  sự kềm kẹp của mật vụ và những vụ khủng bố trắng thời Stalin. Hoặc biến cố tết Mậu Thân năm 1968 với vụ thảm sát ở Huế . Cũng như ông đã đọc những lời chỉ trích chế độ Cộng sản của  nhà văn Soljenitsyne và nhà bác học Sakharov cha đẻ  ra bom nguyên tử của nga. Rồi những André Gide, Bertrand Russel, mới đầu thiên Cộng nhưng sau lại chỉ trích nặng nề, hay những Koestler, Georghiu, Djilas, .. mới đầu là đảng viên trung kiên nhưng sau phản tỉnh  chống đối gay gắt .

Dù vậy nhưng Nguyễn Hiến Lê  vẫn thiên về  miền Bắc và hy vọng rằng sau hiệp ước Paris sẽ có hòa bình và  sẽ có chính phủ ba thành phần.

Nhưng, khi đã sống với Cộng sản , ông đã nhìn ra tất cả những khuyết điểm của một chế độ vô sản chuyên chính. Ông có những nhận xét rất xác thực, về  đời sống người dân trong thời kỳ đó.   Ông phân tích rõ ràng từ hệ thống hành chánh phường khóm,  từ tinh thần làm việc bê trễ đến hệ thống giấy tờ phiền nhiễu phức tạp, cũng như nạn nhũng lạm, ức hiếp dân chúng.  Ông kể chuyện những ngày đổi tiền, biết bao nhiêu người trở thành tay trắng  vì thủ đoạn ăn cướp tài sản người dân một cách công khai.  Rồi ông nhận xét về kinh tế, về công nghiệp, nông nghiệp, … mặt nào cũng đều thất bại thê thảm. Những công ty quốc doanh không tạo được sản phẩm , lại lối quản trị , làm việc lề mề, nên trở thành gánh nặng cho quốc gia. Những nông trường khai hoang , hoặc vùng kinh tế mới,  làm theo chỉ thị và lấy có nên  không có kết quả,   và có thể là nơi lưu đày của những người sống ở thành phố. Về phân phối hàng hóa, thì ngăn sông chắn chợ,  gây phiền hà cho dân. Rồi chiến dịch đánhtư sản, kiểm kê tài sản, những cuộc vơ vét , tịch thu của cải. Tóm lại, là cả một xã hội xuống cấp trầm trọng,  tự do hạn chế, dân chúng nghèo khổ, ..

Đọc Hồi ký Tập 3 của Nguyễn Hiến Lê,  tôi có cảm giác như đang đọc một bản cáo trạng buộc tội chế độ Cộng sản một  cách rất nặng nề.  Trong hơn 200 trang giấy, ông  viết thật chân thành, nêu lên những sự thực  và gửi theo những nỗi niềm đau lòng của một người  đã thức tỉnh dù hơi muộn màng. Dù được kể vào  hàng nhà văn tiến bộ, và được chế độ mới dành cho nhiều ư đãi cũng như mời mọc để tham dự các buổi lễ  cũng như các sinh hoạt văn hóa  nhưng ông tránh né và luôn luôn làm người đứng ngoài.

Đọc những đoạn văn , viết thẳng thắn , không sợ sệt , không né tránh sự thực , tôi mới thấy cái tư cách kẻ sĩ vòi vọi của ông. Có những người,  hồi trước thiên Cộng , nay muốn thay đổi suy tư mà vẫn chưa dám mạnh dạn, vẫn còn nói quanh nói co , không dám chấp nhận cái sai sót của mình.  Còn với ông Nguyễn Hiến Lê, nghĩ gì viết nấy , không có áp lực nào làm ông  thay đổi  được  thái  độ .

Hãy đọc đoạn ông viết về phong trào vượt biên:

“ Từ năm 1977, người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh  tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói "Cây cột đèn  nếu đi được thì cũng đi” Dù phải gian lao khổ cực  tới mức nào  hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại  trong nước mà chết lần chết mòn , người ta nghĩ vậy..”(trang 109)

Hay: "Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30 –4-1975, miền Nam rất chia rẽ, nhiều giáo phái đảng phai nhưng tiến bộ hơn miền Bắc  nhiều về mức sống, kỹ thuật , nghệ thuật, văn hóa nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoiạ quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc.., cả về đạo đức nữa, vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ , ít gian tham( tôi nói số đông) ít chịu làm cái công việc bỉ ổi  là tố cáo người hàng xóm chứ đừng nói tới người thân, nói chung là không có  hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc  tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là ngụy với nhau mà!..” ( trang 115)

Hoặc : "làm cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo  nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm, bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ , để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền. Lệnh trung ương ban hành , địa phương không theo, làm ngược hẳn lại, lương hưu trí không phát , tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không cho rút ra mà không thẳng thắn cho họ biết lý do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua năm khác , chờ chán thì tuyệt vọng thôi không đòi hỏi nữa; cho người ta vượt biên bán chính thức, thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng rồi bỗng nhiên ngưng lại hết mà không trả đủ vàng lại cho người ta; thâu thuế của người ta và cho phép bán ở chợ trời rồi đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền thì  hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho dân cày, , nắm chính quyền được ít lâu thì thuế chợ còn nặng hơn trước, mới chia đất cho dân thì đã bắt đầu vào hợp tác xã nông nghiệp , bỏ quyền làm chủ miếng đất của họ mà làm chủ tập thề;tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo chế độ  dân chủ , trung lập, rồi một năm sau đã thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ đó , bắt miền Nam theo chế độ xã hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí , các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực , đến nỗi chính các cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng  báo chí nói láo hết, như vậy làm sao dân tin chính quyền được ..” (trang 119-120)

Và rất nhiều những đoạn tương tự như thế trong tập hồi ký . Viết hồi ký có phải là ghi lại trung thực những sự kiện, Tôi nghĩ như thế . Và xa xôi hơn , trong hoàn cảnh lúc đó , trong sự theo dõi nghặt nghèo như vậy , Ông Nguyễn Hiến Lê đã viết được những trang sách để đời. Những người lớp sau, đọc những trang sách ấy, không còn bị  che dấu bởi những lối viết mập mờ của những người viết không dám nói lên sự thực. Ngay như một người   đi theo Cộng sản đến cuối đời  như Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí mà còn nói: “Thời trước mình viết, ngụy nó bỏ tù mình cũng không sao, bây giờ mà viết  để cho cách mạng bắt giam mình  thì kỳ quá  mà lại kẹt cho họ nữa”

Tôi là một người đọc rất nhiều sách của tác gỉa Nguyễn Hiến Lê, hầu như  trên lãnh vực nào tôi cũng học hỏi được rất nhiều.  Với tôi, ông là một ông thầy lớn, một học giả uyên bác , một người khảo cứu sâu sắc và  cẩn trọng. Nhưng , còn một điều quan trọng hơn nữa là tôi kính phục cái tư cách kẻ sĩ của ông. Q ua bộ hồi ký, ông tỏ lộ được cá tính của mình, của một người trí thức không bẻ cong sự thực . Và,  ông đã can đảm nói lên cái nhầm lẫn của mình khi chưa sống với Cộng Sản . Ông là một trí thức  đúng nghĩa  trí thức …