Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

NGHĨ VỀ MỘT BÀI THƠ 

CỦA  MỘT THI SĨ VỪA RA ĐI

 

NGUYỄN MẠNH TRINH

 

Thơ Giang hữu Tuyên  có nét riêng của những người sinh trưởng từ Nam Bộ. Thơ, đầy những hình ảnh  của thôn quê , của liếp rau bên ao  , cuả con kinh trước mặt ,  của dậu mồng tơi tím, của  ngọn cải đọt rau quê nhà. Ở tâm tình của một người tha hương ,  nơi để nhớ nhung về,  dù là những cảnh  tầm thường quen thuộc của quê hương. Trong nhiều trường hợp , Giang Hữu Tuyên vừa là người “ tạo cảnh “ vừa là người “ tả cảnh” . Tạo cảnh là dùng những nét chân thực để tạo thành một thế giới riêng chuyên chở tâm sự ý tưởng mình. Còn tả cảnh là dùng lời chân thực để phác họa những cảnh tượng có nét sống động của đời sống hiện thực. Nhà thơ đã dung hòa để có một thế giới mà trong đó có sự chân thực của đời thường mà lại chuyên chở được ý tửởng , tâm tư .Giang Hữu Tuyên tả cảnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long , và trong ngôn ngữ chân chất ấy gửi gấm theo tấm lòng hồn hậu   của một người yêu tha thiết quê hương.

Giang Hu Tuyên  đã ra đi vào cõi miên vin nhưng thơ ca ông vn còn hin hu.  Rt nhiu người bng hu ca anh  đã viết v người thi sĩ d mến này.  Thơ ca ông  được đọc  và  qua nhiu nhn xét  để  phác ha li  mt khuôn dáng  người làm thơ có phng pht thi tiết và nơi chn ca đồng bng Nam B.

Trong thơ Giang Hu Tuyên, hình bóng ni bt nht là hình bóng m. Bà m ca quê mùa, ca nhng hi tưởng v nhng nơi chn gn gũi.

 

“Nng xiên giàn du tric nhà

M che tay ngó mông ra đầu làng

Gió chiu bt M ho khan

Con gi đâu mt bit ngàn tăm hơi

Nh con m hái mng tơi

Nu ni canh cũ m ngi dm chan”

 

Nhng câu lc bát bình d.  Nhng tâm tình gin đơn mà thm thía. Cnh và ngườii , người và cnh , như điu gì qun quít nhau. Vn là nơi quen thuc . Vn là tâm tư vong ngàn trùng.

 

“ Rau răm tri hết lá già

mùa xuân gi ngn bc hà xa xăm

chiu nghiêng dáng núi đêm rm

lòng trăng cũng gic ý thm nh quê

nao nao tiếng cuc b tre

trên ao bèo git gió v mang mang

ba đi bông ci n vàng

sông chia nhánh chy tóc ngàn dm bay

(lu không nước đã bao ngày)

mà người th hi vn hoài ngóng trông.”

      

Nhng câu thơ bình d , nhng ý tưởng sng động cn gn trong cuc sng hôm nay. Thơ  nhng nét khc ha, có m o lãng mn nhưng cũng tràn đầy cht sng. Tp thơ “ Tri mưa đi phát báo “ có đầy đủ nhng  đặc tính y.

Sng lưu lc tha phương, ai mà chng có lúc chnh lòng nghĩ v quê hương xưa , đất nước cũ. Làm thơ , để nhng vương vn y không là nhng giây phút bun phin, mà, ngôn ng chính là màu nng nh, là tc gió phai  cho cuc sng lung linh hơn . Dù rng ai ny  cũng hi được  ni  mong manh ca cuc sng.

Tôi biết Giang Hữu Tuyên từ lúc cộng tác  gửi bài cho “ Việt Chiến” cũng như biết hai người cùng chủ trương là  Ngô Vương Toại và Nguyễn Đình Hùng. Những câu chuyện qua điện thoại, ấm áp, thân tình làm mình cảm thấy bớt cô đơn trước cuộc sống đang dần dần trước mắt. Thời gian ấy là lúc tôi mới vừa chân ướt chân ráo tới định cư ở Hoa Kỳ. Một thời kỳ chuyển tiếp của cuộc sống tôi tràn đầy kỷ niệm.

Giai đoạn ấy  cũng là thời gian mà tôi viết một cách hăng say nhất.  Viết , để cho tôi nhiều hơn là cho mọi người. Nếu không, như nồi hấp đầy hơi sẽ vỡ toang ra hết…

Thú thực, lúc ấy tôi còn mơ mộng nhiều lắm và cái dư âm ảnh hưởng của những ngày còn ở bên nhà cẫn còn đầy ắp trong tâm não. Và ,  tôi nghĩ,  những người chủ trương “ Việt Chiến” như Giang Hữu Tuyên  chắc cũng như thế, lúc đó. 

Có điều gì bức bối phải nói ra cho hả. Quê hương, mới đây còn gần gũi mà bây giờ xa biệt.  Có bao nhiêu gửi gấm từ những người còn kẹt lại bên nhà?  Đời sống ở đây sao lạ lẫm quá.  Ta đã làm gì đời ta? Câu hỏi ấy như chung mang của nhều người . Có nhắc nhở nhưng có một chút gì bó tay vô vọng…

Thập niên 80 ở hải ngoại có những người lính cũ tương đối còn trẻ và bước vào văn chương một cách tình cờ trong sáng. Không có tham vọng làm nhà văn, mà, họ chỉ muốn làm chứng nhân để ghi chép lại nỗi niềm của một thời đại  thật nhiều biến cố . Bây giờ  , qua một khoảng cách thời gian cần thiết để ngoái lại nhìn ngắm,   cái tâm hừng hực lửa với đời, với người  của họ  đã làm văn chương chữ nghĩa thuở ấy có sự lôi cuốn nhập cuộc nhiều người.

Nhóm  tạp chí Nhân Văn với những Tưởng Năng Tiến, Lý Khánh Hồng, Thượng Văn,Võ Hoàng .. ở miền Tây Hoa Kỳ và nhóm  anh em quanh tạp chí Việt Chiến  ở  miền Đông bắc Hoa Kỳ, là một phần  đại diện cho những người trẻ nhiều lý tưởng muốn đóng góp một phần nào  công sức cho đại cuộc của  quốc gia ,  dân tộc  . Thơ văn , đối với họ , là mũi lao tấn kích vào bạo quyền , vào những thế lực phi nhân đang ngự trị trên đất nước. Một cuộc chiến vẫn còn, dù chém giết đã hết trên quê hương. Một mặt trận bằng bút mực trên lãnh thổ văn chương vẫn còn tiếp nối….

Giang Hữu Tuyên có cảm xúc thực để làm thơ. Cái chất lính ngày xưa và cái tâm thời trôi dạt hôm nay, trộn lẫn. Những vần thơ chất phác bình dị nhưng chất chứa cái phần hồn  nhiều bão dông thời thế. Thơ của ông không có cái phấn son điểm tô cho ngôn ngữ mà có sự mộc mạc của chất quặng nguyên sinh cuộc sống. Trong nhịp đập hôi hổi sinh động ấy, cái buồn đã chuyển hóa đi để thành động lực dù lãng mạn nhưng là sức đẩy để giúp chúng ta đi qua những gập ghềnh của cõi nhân gian. Thân phận lưu vong,  như người bên lề lạc lõng, cái tủi thân ấy có thoáng qua nhưng cũng đủ  làm tê điếng tấc lòng.  Nếu viết ra, như một lời tâm sự , chắc cũng dịu đi nhiều cái dằn vặt thâm tâm.

Tâm sự tha phương ai cũng giống nhau. Như một ông tướng tư lệnh quân chủng tôi, khi viết cảm khái về những giọt mưa quê nhà đã nói về cái mộng ước nhỏ nhoi được cùng với giai nhân của mình sống lại những đêm nghe mưa tí tách tầu tiêu  trong cư xá  phi trường Tân Sơn Nhứt.  Hay , như Giang Hữu Tuyên : “ Mưa ở Arlington nhớ mưa quê nhà.”

 

Lá vàng rụng hết đêm qua

Chiều xô cửa ngõ ngó ra rất buồn

Mưa đằm ngọn cỏ đan sương

Mưa nghiêng kỷ niệm mưa buồn tóc  bay

Hồn bình nguyên rộng trên tay

Căng đầy nỗi nhớ sông dài phù sa

Ơi miền Nam Ơi quê nhà

Dưới ao sen nở mẹ già vo cơm

Vo nồi gạo mới Nàng Hương

Ca đồng tháng chp ca lòng đất thiêng

Mưa phùn gió phất qua hiên

Em gom củi đước đốt lên nỗi niềm

 Chị ngồi vá chút buồn riêng

Anh đi như thể  là  thiên thu rồi

Mây vô tình trắng chị ơi

Nghìn năm muối mặn nghìn đời biển xanh!”  

 

Người sinh trưởng từ đồng bằng sông Cửu Long có tâm tính bình dị như  cảnh thổ nơi ấy. Từ hình ảnh đến ngôn ngữ,  đều bình thường như cuộc sống mọi ngày  như ng lại có độ ngân nga của những réo rắt đứt ruột của những dây đàn căng tột độ. Lục bát của Giang Hữu Tuyên   có sự thiết tha của ngôn ngữ Nguyễn Bính. So sánh  thi sĩ này với người làm thơ khác không phải là phương cách chính xác nhưng không hiểu sao, cái liên tưởng ấy tự nhiên có  với tôi.  Nó thành sự đồng cảm  của những người luôn ngóng về quê hương với nỗi chạnh lòng.

Những ngày  của năm tháng đầu tiên ở Mỹ, dù có bận rôn, dù có mệt mỏi nhưng khi hồi tưởng lại là một thời gian có nhiều  dấu ấn tâm thức và khó tàn phai  nhất.  Lúc ấy, nặng vai quá khứ, dấn bước hiện tại nhưng ngóng về tương lai. Ngày tháng , tiếp nối bằng nỗ lực. Những trang sách tiếp theo những giờ lao động nặng nề, óc não và cơ bắp cũng căng theo nhau lấp đầy những thời khắc. Có một điều gì, trong thâm tâm. Nửa tiếc nuối , nửa hãnhdiện. Tuổi trẻ chúng tôi, những chọn lựa bắt buộc. Vào lính, mặc quân phục, cầm súng nhưng trong tâm vẫn thao thiết tiếng gọi yên bình. N hững cơn mơ, trong thơ trong nhạc thắp lên bếp lửa thấp thoáng . Hiện về, những phương trời ảo giác. Có mặt, những mong ước mênh mông. Tuổi trẻ chúng tôi, đã thấp thoáng những bi thảm chực chờ cho đến ngày phương bắc thống trị toàn lãnh thổ. Thơ , văn lại bứt phá lên đường. Có tiếng kêu của kinh cầu hồn nhưng cũng có tiếng âm vang gọi nhau đứng  lên dõng dạc lời của chứng nhân  của một thời đạI cực kỳ bi thảmViệt Nam.

Rồi tiếp những ngày lưu lạc. Rồi nối những tâm sự bềnh bồng. Có những thất vọng vì bàn tay bé nhỏ vô vọng trước những mong đợi to lớn của lịch sử. Nhưng cũng có những mong ước vươn lên từ cuộc sống phù hoa xứ người.  Có giây phút chạnh lòng từ ám ảnh  xa xưa ngày cũ.  Thơ , là tiếng thở dài, trầm lắng , ngắn nhưng sâu…

Một bài thơ của Giang hữu Tuyên, tôi đọc và luôn luôn sau đó bao giờ cũng là những liên tưởng đến thân phận của mình một lúc nào tuy đã hai mươi năm nhưng tưởng như mới hôm qua. Những ngày chập chững gượng lại để bước tới vững vàng cuộc đời mình. Tôi đọc bài thơ ấy nhiều lần và mười lần như một cũng là những chạnh lòng như thế. Bài thơ “ Trời mưa đi phát báo” mà nhiều người cũng đọc và đồng cảm như tôi.

      

“Chiu ngã năm đường năm by ngã

Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi

Bao mùa mưa đã im giông bão

Sao nước trường giang vẫn khứ hồi

Mười mấy năm làm tên phát báo

Lòng buồn theo thành quách xa xưa

Những trang tin dội từ quá khứ

Rớt  ngập ngừng cùng những  hạt  mưa

Mưa lót ngót đời loi ngoi mãi

Sáng chưa đi chiều lại mưa về

Mưa ngã năm từ năm bảy ngã

Ngã nào cũng mưa và mưa thôi

Xấp báo trên tay vừa ướt hết

Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay

Hình như những mùa mưa thuở trước

Đang về làm ướt trái tim ai”

    

Mưa. Những cơn mưa của con người bơ vơ lưu lạc giữa mù mịt đất trơi . Đường năm bảy ngã chiều biết đi về lối ngã nào đây. Chỗ nào cũng mưa và mưa bao phủ. Mưa làm ẩm ướt những trang tin trên báo và cũng ướt luôn trái tim ai đang giây phút chạnh lòng. Ai? Người ấy có thể là tác giả nhưng cũng có thể là một người trong chúng ta , lạc giữa đìu hiu của đất trời và giữa đơn điệu thúc bách của áo cơm. Y hệt như cảnh “ Xấp báo trong tay vừa ướt hết. Vậy mà cứ đứng giữa mưa bay. Hình như những mùa mưa thuở trước . Đang về làm ướt trái tim ai?”.

 Không còn là hình như , mà, đã là như thực, một cảm giác thực, một chạnh lòng thực. Mưa. Mưa. Vô cùng không gian thơ. Mưa của một người lính cũ còn vương vấn chiến địa xưa. Những hạt mưa thuở nào. Buốt xót.

Hình như có lúc Giang Hữu Tuyên linh cảm sự ra đi của mình.  Ai mà không có một lần phải ra đi khi chuyến tàu thiên cổ vào ga cập bến. Nhưng , ở giây phút chia xa còn vương vần lại quê nhà . Thi sĩ  đã nhắn với người ở lại. Mai này trong chuyến tàu thiên cổ. Nếu có người thương tiếc tiễn đưa. Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ. Chút tình hệ lụy núi sông xưa…kẻ tha phương , vẫn muốn trở về để nhớ lại  những ngày xưa cũ của quê hương.  Có tiếng gọi nào trầm thống  cxho một nỗi niềm day dứt khôn nguôi. Thơ , như bước chân trở về dù là một chuyến đi xa. Chuyến đi của “ Đất gọi người đi”

 

“Đất gọi người đi buồn biết mấy

sông dài chảy xiết một giòng thôi

từ nay chín cửa mưa mù lối

sóng nước mênh mông nhánh củi trôi

đã nhiều năm vắng xa biền biệt

mưa nắng hai mùa gieo nhớ thương

mương nước nhỏ chờ bông cải ngọt

vượt mình trên mảnh đất quê hương

nhưng chẳng thấy đâu giờ hạnh phúc

đàn chim bay mãi chửa về đây

áo cơm lần lửa qua ngày tháng

mộng ước lui dần xuống kẽ tay

rừng phong u uẩn nằm im tiếng

chiều phả hơi sươngb lạnh nỗi nhà

Việt Điểu Cành Nam ôi cách trờ

Ngựa Hồ còn hí Bắc Phong xa

Mai này trong chuyến tàu thiên cổ

Nếu có người thương tiếc tiễn đưa

Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ

Chút tình hệ lụy núi sông xưa..”

 

Thời gia n qua thật mau. Tháng tháng ngày ngày qua đi.  Trong nhịp sống vội vã quê người ,  có lúc  vẫn nghĩ về phương trời cũ ,  đất nước xưa.  Có mấy ai , giở lại trang thơ, tìm lại dư hương của người đã ra đi vào cõi không cùng.  Làm sao , hình ảnh quê nhà lại cứ mãi vấn vương.

 Thế nào mà tâm tư lại cứ mải vương vấn. Đọc những câu thơ Giang Hữu Tuyên , có lúc thấy mình lênh đâng chẳng khác nào bè lục bình trôi trên sông , trên rạch.  Đời người  tha hương , có luc 1lại nhớ tha thiết cơn mưa xứ mình, lại yêun tha thiết bát canh mồng tơi mẹ nấu  và thấy muôn đời vẫn là giòng sông thơ ấu ngày xưa tắm mát buôiủ trưa hè.  Ôi ! đó có phải là hệ lụy của núi sông xưa không?

Viết nhân ngày giỗ của một thi sĩ, Giang hữu Tuyên mất ngày 14 tháng  11 , không phải chỉ là tưởng niệm mà thôi, còn là những  giây  phút để nhớ về một thời kỳ đã qua của đời sống mình.  Có những câu thơ, gợi lại một đời sống cũ , đọc lại trong cái xúc  cảm mênh mang. Câu hỏi chúng ta có phải là những người lưu lạc không trên xứ người có lẽ sẽ dễ trả lời. Bởi, cuộc sống này , dù là của thế hệ thứ nhất , thứ một rưỡi hay thứ hai , cũng vẫn chỉ là người đứng bên lề ở nơi bản địa này. Dù rằng , quốc gia này đa văn hóa và có nhiều cơ hội để hội nhập và thăng tiến . nhưng cái tâm cảm lạc lõng vẫn bàng bạc  và lẩn khuất , nhất là trong văn chương.   Tôi đọc  thơ Giang Hữu Tuyên trong cảm giác bồi hồi ấy...