Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

KHAI HOANG

 

LÂM CHƯƠNG

 

Nghe nói, người ta dự trù thiết lập nhà máy làm giấy, tại một tỉnh thuộc miền trung du. Nhà máy do nước Thụy Điển bên trời Âu viện trợ cho nước ta. Không biết công trình đã khởi công hay chưa. Chỉ nghe tin đồn, mà tin đồn thì thực hư chẳng lấy gì làm chính xác. Nhưng có điều chắc chắn, những người thất trận từ miền Nam xa xôi, bị đẩy tuốt lên vùng mạn ngược, đã được lệnh khai hoang phá rừng để trồng cây bạch đàn. Lúc đầu, không ai biết trồng bạch đàn. Lúc đầu, không ai biết trồng bạch đàn làm gì. Mãi sau, mới vỡ lẽ ra rằng thân gỗ xốp của bạch đàn có thể dùng làm giấy. Nhà máy chưa xây, đã bắt tay vào việc tạo nguồn nguyên liệu cung cấp. Quả là biết lo xa!

Những tháng mùa Đông. Trời Việt Bắc mang một màu trắng đục. Chưa nói tới cái rét trên da thịt, chỉ nhìn màu trời ảm đạm, đã thấy buốt cả tâm hồn. Kẻ đi đày, áo rách xác ve, lòng sầu quê cũ.

Nếu so với kẻ đi xây Vạn Lý Trường Thành vào thời Tần Thủy Hoàng, chắc cũng có điểm tương đồng. Sử sách ngàn năm xưa chép lại, tiếng kêu ai oán còn nghe văng vẳng theo ngọn Đông phong dọc suốt dãy trường thành. Khí uất xông lên, mây mù che ám một góc trời phía Bắc Hàm Dương. Chế độ nhà Tần bị diệt, cung A Phòng cũng cháy thiêu. Đền đài cung điện nguy nga, bỗng chốc hóa tro tàn. Trải qua bao nhật nguyệt nắng mưa. Hươu nai chạy trên nền cũ. Lau sậy lút đầu. Chứng tích một thời ác nghiệt kinh thiên, còn lại một Vạn Lý Trường Thành. Dù nhân loại không muốn tái diễn chế độ bạo tàn, nhưng các sử gia khẳng định rằng lịch sử luôn luôn lặp lại. Và lịch sử Việt Nam đang lặp lại cái thời Tần Thủy Hoàng, hơn hai ngàn năm trước. Không gian, thời gian sai biệt, tình huống chẳng khác gì nhau. Đốt sách và đày ải con người, dường như sao nguyên bản của chính sách nhà Tần.

Lên miền Thượng Du, đứng đâu cũng thấy núi non bốn bề vây hãm. Trông về Tây Bắc, lô nhô một dãy chắn ngang tầm mắt. Núi nhòa sương, không rõ nét. Muốn sang bên kia, khu vực được chọn trồng cây bạch đàn, phải qua đèo. Đèo không cao mà dốc ngược. Thế đất yên ngựa nằm vắt ngang dãy núi. Thoạt nhìn, đã ngao ngán đôi chân. Đường đèo trơn ướt, gập ghềnh đá tảng, luồng lách qua những cây nhỏ cây to, quanh năm che khuất mặt trời. Đá núi ngậm sương lâu ngày, phủ áo rêu phong. Người đi trước, nhỡ làm lăn một tảng đá, khó lường được tai nạn khốc liệt cho người đi sau. Có nhiều đoạn đèo cheo leo bên bờ vực. Tay bám vào cây, chân lần từng bước. Sơ ý ngã xuống vực, mất mạng như chơi.

Đoàn tù lên dốc lom khom, thân chúi về phía trước, trông như những con ốc sên to lớn dị thường, từ từ bò trên miệng vực. Để chống cái rét thiên nhiên, có bao nhiêu áo quần vá víu, tù nhân đều chùm đụp cả lên người. Trên lưng lại chở thêm chiếc ba lô tự tạo. Trong ấy đựng nhiều thứ vặt vãnh, nhưng vô cùng cần thiết cho một đời sống vốn đã đơn giản hóa đến mức tối đa. Những hình nhân biến tướng thành những hình thù kỳ dị biết di động. Dù đã trùm nhiều lớp áo quần, nhưng vẫn thấy rét. Rét từ đâu trong xương rét ra. Rợn từng hồi, dọc theo xương sống. Rét thắt ruột gan vì đói. Rét luồn vào đường gân thớ thịt, tạo thành cơn run.

Lên tới đỉnh đèo, ngồi lại nghỉ mệt. Ủ hai bàn tay trong cặp đùi, sưởi ấm cho những ngón lạnh tê. Hai bên sườn núi mịt mù sương trắng. Nhìn xuống lũng, mây nặng màu chì, la đà trên thôn bản. Vời trông xa xa. Không gian mù đục, chẳng thấy chân trời. Làm người quen sống tụ họp nơi những vùng đất thấp. Lên cao, cảm giác chênh vênh hiu quạnh lạ lùng. Khí ẩm. Cây lá ướt mù sương. Trời đứng gió. Mọi vật chung quanh im lìm, dường như nín thở. Chỉ có lũ vắt rừng đang âm thầm hoạt động. Nghe hơi người, vắt từ lá mục bò lên, bám vào kẻ ngón chân. Vắt trên lá cây buông mình rớt xuống, chui vào cổ áo. Khi nghe da thịt ngứa ngáy, con vắt đã no máu rồi. Trên mặt địa cầu, nơi nào cũng có loài hút máu. Nhưng so ra, trong tất cả các loài hút máu, không có loài nào kinh khủng bằng loài người. Loài người đã hút máu người, thì hút đến cạn kiệt sự sống. Những kẻ đi đày hôm nay, đang bị xuất huyết bởi chính đồng loại của mình.

Trong nỗi cùng khốn, chợt nghĩ đến một nhà văn ngoại quốc. Ông ta cảm thấy bị lưu đày ngay trên quê hương mình. Ở những quốc gia bình yên sung túc, cuộc đời nhàn tản mãi, làm người ta nhàm chán. Họ muốn tìm cảm giác mới cho tâm hồn, tưởng tượng ra mọi nỗi thống khổ để quằn quại rên la cho thân phận kiếp người. Trên quê hương tôi, những thứ đó chẳng cần tưởng tượng. Tất cả những bất hạnh khổ đau nào cũng đều hiện thực. Chiến tranh. Nghèo đói. Chết chóc. Tù đày. Không vào địa ngục, cũng thấy cảnh A Tỳ. Quỷ Vô Thường hiển lộng. Những đấng Từ Bi Cứu Thế đều bỏ đi xa. Chúng sinh lặn ngụp trong bể trầm luân. Kêu gào. Than khóc. Chẳng thấy ai ra tay cứu độ. Thế mới biết, tại sao Lão Tử một mình cưỡi trâu xanh biệt tăm vào núi. Nhưng, thời của Lão Tử còn có thể tìm nơi cao sơn cùng cốc lánh đời. Thời của tôi, ẩn trong hang cùng xó núi cũng chẳng yên thân. Người ta sẽ lôi ra, gán cho đủ thứ tội lên đầu. Thành phần xã hội ở đây, được phân chia rất rõ. Quỹ và Người. Con người ở dương thế, nhưng sống trong trạng thái địa ngục. Phía sau những khẩu hiệu tưởng chừng dẫn tới thiên đàng, thật ra là đường về âm cảnh. Làm người trong thời của tôi, thường xuyên đi trên chông gai lửa đỏ. Tinh thần khủng hoảng, nhìn đâu cũng hồ nghi có họng súng lưỡi lê rình rập. Đêm chập chờn ác mộng. Nghe tiếng chó sủa, giật mình thảng thốt. Nghe gà gáy báo hiệu bình minh, sợ có kẻ tới nhà gọi đi thẩm vấn. Bị thẩm vấn là điềm báo tai ương, dữ nhiều lành ít.

Lên đèo đã vất vả. Xuống đèo, càng vất vả hơn. Không vận dụng sức lực nhiều, nhưng lắm rủi ro. Bất cứ lúc nào cũng có thể sẩy chân lăn xuống vực. Có nhiều đoạn dốc ngược, không thể di chuyển bằng đôi chân. Ngồi mà tuột dốc. Thương cho cái đít quần. Ngồi mà tuột dốc. Thương cho cái đít quần. Lết xuống tới chân núi, đít quần mòn rách te tua. Hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, cái ăn cái mặc là quý. Mảnh vải che thân bị rách, cũng đau như chính da thịt mình xây xước.

Qua tới khu vực chọn trồng bạch đàn, việc đầu tiên là lo chỗ ở. Tù nhân tạm trú trong nhà kho hợp tác xã. Nhà kho không vách phên che, tứ bề trống lốc. Dựng nhà kho để làm mô hình cho hợp tác xã. Người dân sơn cước chưa đủ miếng ăn, có đâu dư thừa lương thực cho vô nhà kho? Để trống cái lạnh thiên nhiên, tù nhân được ra đồng ôm rơm về lót ổ. Ngày còn nhỏ, nghe nói đến ổ rơm của người nghèo Miền Bắc.

Thời xa xưa ấy, tưởng đã qua rồi. Không ngờ, mấy chục năm sau người tù đến đây, thực hiện cái ổ rơm cho chính mình.

Ổ rơm của tù có hình thức như chiếc máng dài. Lòng máng lót nửa tấm chăn. Nửa tấm còn thừa, dùng đắp lên người. Cuộn mình lâu trong ở rơm, hơi ấm tụ lại, thấy đời cũng dễ chịu. Khi con người bị tước mất tất cả, được một chút tiện nghi nhỏ nhoi cũng nhân lên thành sự thoải mái lớn. Thoải mái thường sinh ra những ước mơ tình cảm. Nếu được nằm ôm vợ trong cái ổ rơm ấm áp này, thì hạnh phúc biết chừng nào. Nghĩ thế, lại bàng hoàng. Từ lâu, gia đình vợ con đã không còn là nỗi nhớ nhung quay quắt. Những hình bóng mờ nhạt ấy lùi sâu vào quá khứ, xa xôi như thời tiền sử. Trong cảnh cố cùng đói rách, dạ dày vật vã đòi ăn, kéo cái đầu xuống thấp, chạm mặt vào thực tại. Ước mơ được gần gũi gia đình hạnh phúc, là chuyện quá tầm tay. Đòi hỏi bức bách bây giờ là miếng ăn. Một đòi hỏi tầm thường của con vật. Thế nhưng không dễ gì được thỏa mãn. Đêm nằm trăn trở, chỉ mơ tưởng miếng ăn hèn mọn. Củ sắn, hạt ngô bỗng to lên, chiếm hết những khoảng tình cảm dành cho vợ con, đẩy lùi hết những mơ mộng viễn vông.

Khẩu hiệu tự do ấm no hạnh phúc, xem chừng đơn giản. Nhưng muốn vươn tới, không dễ. Bởi khống chế giam cầm, những nghèo đói kinh niên, những trù dập răn đe, đi ngược chiều khẩu hiệu.

Giữa thời kinh mang

Người nằm trong đất không yên

Phá mả tìm vàng

Cạy nắp áo quan

Huyệt sâu chấn động hồn thiên cổ

Gỗ đá còn đau nhức thấu xương.

 

Người chết đã thế. Người đang sống vật vờ mà mong bình yên hạnh phúc, là điều hư tưởng.

Cuối thập niên bảy mươi, cả nước lâm vào tình trạng kiệt quệ. Hội Lương Nông quốc tế ồ ạt tuôn bột mì vào nước ta cứu đói. Bột mì được phân phối lên tận miền cao. Người dân sơn cước không quen ăn thứ bột xa lạ này, nên điều đình với trại tù đổi lấy sắn ngô. Chuyện trao đổi, người khác quyết định, nhưng tù nhân lại ăn bột mì. Phẩm càng cao, lượng càng ít. Tù đói rã ruột. Đói lờ đờ trắng mắt. Đói chóng mặt xiêu xiêu. Buổi sáng, trước khi lên rừng, được một cục bột luộc bằng nắm tay. Buổi chiều về, được ổ bánh mì nướng dài cỡ gang tay. Ăn một lượng bột như thế với nước mối, mà phải ra sức “chém tre đẳng gỗ trên ngàn”, thì linh hồn nào cũng muốn ruồng bỏ xác thân.

Sương sớm còn âm u, đoàn tù đã có mặt trên vùng khai hoang. Đồi núi chập chùng. Rừng già heo hút. Tưởng như từ thời khai thiên lập địa chưa có chân người đi tới. Muỗi đói, vắt rừng làm tổ. Quơ ngọn dao lay động lá cành. Muỗi bay ra như bầy ong vỡ tổ. Muỗi cánh bông, hung dữ lạ thường, ào ạt tấn công. Nhưng muỗi cũng chưa đáng sợ bằng vắt. Vắt áp dụng chiến thuật du kích. Âm thầm len lỏi, đánh giá bất ngờ. Khi phát hiện được vắt, ta đã bị tổn thất rồi. Chỗ vắt bám, máu cứ ri rỉ cả ngày.

Còn một loài ác ôn nữa, vô cùng độc địa. Loài này không nhiều, nên ít ai nói tới. Đó là ve chó, là nách và háng. Người bị ve chó, cảm thấy sốt nhẹ và hơi đau nơi vết thương. Cởi áo ra xem. Một vùng da ửng đỏ. Trung tâm vùng đỏ, con ve vẫn còn bám như một hạt đậu đen, rúc sâu vào da thịt. Không biết nó bám đã mấy ngày rồi. Hấp tấp lôi nó ra, thì đầu và chân nó dình lại trong thịt. Nơi ấy sẽ làm độc thành ghẻ. Phương pháp hiệu nghiệm nhất để trục toàn thân tên cố lỳ, đùng đầu điếu thuốc nóng hơ vào đít nó. Chiến thuật hỏa công buộc con ve chó rời nơi tử thủ, bỏ lại cái hố tròn bằng đầu đũa, tươm máu. Vết thương ngứa ngáy cả tháng trời chưa khỏi.

Công cuộc khai quang được áp dụng theo chiến thuật đánh bao vây, từ nhiều mặt đánh vào. Các trại huy động tù nhân phá rừng, tiến dần về tâm điểm. Khi tù nhân các trại giáp mặt nhau, là lúc cả một vùng rừng già tre nứa mênh mông nằm rạp xuống. Có những người tù nhìn thấy bạn cùng đơn vị ngày xưa. Trong hoàn cảnh khốc liệt này, một cái vẫn tay chào cũng đủ nói lên trăm điều cay đắng.

Cây rừng ngả xuống, vài ngày sau lá sẽ khô. Châm một mồi lửa, tất cả cháy thiêu. Lửa cháy suốt đêm, không người canh giữ. Đất nước là của chung, nếu lửa cháy lan ra ngoài khu vực khai quang gây nên nạn cháy rừng, ai nhận lấy trách nhiệm?

Nửa khuya, đứng từ nhà kho hợp tác xã nhìn lên, mịt mù không thấy dáng núi. Chỉ thấy lửa cháy trên cao. Như lửa trời cháy giữa thinh không. Sau một đêm, vùng rừng thiêng tồn tại cả ngàn năm bị hủy ra tro. Người với đất chung niềm đau nhức. Đất lặng thinh phơi bãi tro tàn.

Tù nhân khai hoang phá rừng dọn đất, nhưng không có lệnh chỉ định trồng bạch đàn. Nhân viên lâm nghiệp toàn là phụ nữ độc thân. Bởi những đàn ông trai tráng đã hiến mình cho Đảng, vào Nam làm cuộc cách mạng thần kỳ bằng xương máu. Cách mạng thành công, nhưng họ không bao giờ về nữa. Tình trạng trai thiếu gái thừa, phụ nữ phải đảm trách những việc nặng nhọc trên các công nông trường. Cán cân nam nữ chênh lệch, gây nên lắm chuyện cười ra nước mắt. Phụ nữ lâm nghiệp đã từng đệ đơn kêu gào lên thủ tướng chính phủ, xin cung cấp đàn ông. Mục đích để có đứa con chăm sóc cho mình lúc tuổi về già bóng xế. Và đàn ông phục vụ tập thể các cô trong trường hợp này, không theo cái nghĩa người chồng ân ái với vợ, mà phải hiểu như con nọc làm bổn phận nhảy đực truyền giống cho con nái sinh đẻ.

Bao giờ cây con bạch đàn sẽ trồng xuống vùng đất khai hoang? Hiện nay, các công trình thường hay bỏ dở nửa chừng. Chỉ cần một ý kiến thay đổi nào đó, toàn bộ kế hoạch trồng bạch đàn sẽ hủy bỏ. Trên xứ sở này, chuyện vô lý nào mà không thể xảy ra? Nghe nói (lại nghe nói), vật liệu từ Thụy Điển đem sang nước ta để xây nhà máy giấy, bị mất quá nhiều do nạn ăn cắp. Thụy Điển đã đơn phương hủy bỏ hợp đồng rồi. Không có nhà máy giấy, trồng bạch đàn làm gì? Lệnh khai hoang, trở thành lệnh phá rừng vô tội vạ.

Ngày đoàn tù vượt đèo về trại cũ, nhằm ngày Chúa giáng sinh. Trời đổ mưa phùn. Mưa lất phất lai phai, trắng cả núi rừng. Lao đao trên đèo trơn dốc ngược, lại nghĩ đến cây thập giá trên vai Chúa. Ngài xuống đời gánh vác tội lỗi cho loài người. Chúng tôi gánh vác tội lỗi cho ai, mà cũng muôn vàn khổ nạn?