HƠN BA MƯƠI MÙA XUÂN
THA HƯƠNG, NHỚ LẠI HAI
BÀI THƠ XUÂN CỦA ĐỖ PHỦ
NGUYỄN HOÀI VÂN
Mùa xuân đến, chợt nhớ mình đã nhìn thấy hơn ba mươi mùa xuân trên đất khách, tôi bất giác nghĩ đến hai bài thơ xuân của Đỗ Phủ, đã quên gần hết, và lôi ra xem lại.
Có lẽ cuộc đời Đỗ Phủ mang những nét mà tôi, và nhiều người Việt đương thời tôi, rất dễ dàng thâm cảm. Ông lớn lên và được nuôi dưỡng trong những hoài bão cao cả, những ước vọng to lớn. Tổ phụ ông là một danh tướng đời Tấn, thân phụ ông làm quan. Riêng ông, từ nhỏ đã nổi tiếng tài ba xuất chúng, và là kỳ vọng của nhiều bậc danh sĩ đương thời. Thiếu thời ông du lịch nhiều nơi, quan sát khắp chốn, hòa hợp với đời sống của muôn dân. Những tưởng ông sẽ được dịp thi thố tài năng, ra sức tế thế kinh bang cho trăm họ ấm no hạnh phúc, mà sự nghiệp của ông cũng hiển vinh. Thế nhưng, khi ông chết ở chốn tha hương, năm 59 tuổi, ông vẫn nghèo đến độ gia đình không thể đem được linh cửu về quê. Từ thời điểm ấy, nhìn ngược lại cuộc đời ông, gần như lúc nào ta cũng chỉ thấy nghèo đói, thiếu thốn, và nhất là bôn ba tứ xứ, nay đây mai đó nơi đất khách quê người để trốn chạy cảnh chiến tranh loạn lạc. Ông cũng có thời làm quan, nhưng con đường quan quyền lúc ấy quả thật là quá chật hẹp đối với con người như ông. Vua thì thấp kém, đồng liêu toàn một bọn ganh tỵ, nhỏ nhen, ông phải nhiều lần lui về dân dã, sống cảnh thanh bần.
Có những người từ quan mà an nhàn sung sướng. Đỗ Phủ từ quan để về sống với những cơ cực khốn khổ nhất của người dân. Năm 39 tuổi, con nhỏ của ông bị chết đói ở Thiểm Tây trong khi ông sống cực kỳ nghèo khổ nơi kinh thành. Không có cơn giặc giã loạn lạc nào không làm cho ông phải khốn đốn điêu linh, như mọi người dân bần cùng khác. Cũng như họ, ông nhiều lần tất tưởi tay xách nách mang lên đường chạy loạn, tỵ nạn hết nơi này đến chốn khác. Cũng như họ, ông phải chịu sự sách nhiễu của bọn quan quân gian ác. Rồi cũng như họ, ông phải nếm mùi đói rét, bệnh tật, phủ trùm lên nỗi buồn thương nhớ quê hương, hoài tưởng những người thân yêu cách biệt.
Rồi khi mùa xuân đến, ông nhìn cảnh vật, tự hỏi tấm lòng tha hương của mình, mà làm nên những vần thơ đi thẳng vào tâm hồn chúng ta. Tôi muốn chia sẻ với bạn đọc những cảm xúc ấy, nhân mùa xuân 2010, kỷ niệm ba mươi mùa xuân tỵ nạn...
Đầu tiên là bài
Xuân Vọng:
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiễn lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong hỏa liên tam nguyệt
Gia thư để vạn câm (*)
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn giục bất thăng trầm
Dịch nghĩa:
Ngắm cảnh xuân
Quốc gia tuy tan nát, nhưng sông núi vẫn còn
Trong thành phố mùa xuân, cỏ cây rậm rạp
Cảm động trước thời thế ấy, hoa rơi nước mắt
Thương hận cảnh biệt ly kia, lòng chim rung động
Suốt ba tháng liền gió lửa
Nhận được thư nhà, quý như vạn lượng vàng
Vuốt tóc bạc, thấy càng thêm ngắn
Tóc lởm chởm, trâm cài mãi không xong
Bản dịch của cụ Trần Văn Ân (Côn Sơn 1959):
Trông Xuân
Nước mất còn non sông
Cỏ cây xuân mướt cùng
Sầu tang hoa nhỏ lệ
Hận biệt điểu kinh lòng
Khói lửa ròng ba tháng
Thư nhà giá vạn đồng
Bạc đầu thêm tóc ngắn
Búi mãi vẫn không xong
Mỗi người Việt đều mang trong ký ức mình hình ảnh những mùa xuân khói lửa. Riêng tôi, bài thơ này gợi nhớ Tết Mậu Thân 1968:
... Mới hôm trước nhà đầy khách, tưng bừng đón Tết. Mãi đến tối mịt, ai mới về nhà nấy, lòng còn nhộn nhịp tươi vui. Trong đêm, tiếng súng nổ xa xa tựa hồ tiếng pháo, nhưng càng ngày càng gần, rồi tiếng đạn rít trong phòng ngủ, tiếng cửa kính vỡ tan... Cả nhà nằm bẹp dưới đất. Chuyện gì đã xảy ra? Sáng hôm sau, nhà hàng xóm phía sau bị trúng đạn pháo kích sập hoàn toàn. Không biết ai chết ai bị thương? Trong nhà đầy vết đạn, có cả lỗ đạn nới đầu giường. Những người thân thương hôm qua còn đầy đủ nơi đây, nay đã ra sao? Gia đình mình có phải lên đường chạy loạn hay không? Ngôi chùa kế bên, người ta chạy về, chẳng lẽ mình lại chạy đi? Chiều đến, chùa vắng tanh, lối xóm đã đi hết. Chúng tôi kẹt lại trong vùng giao chiến. Các “người anh em bên kia” chiếm ngôi chùa. Một anh đặt súng máy trên bờ tường sát nhà, ngồi ngất nghểu. Mẹ tôi nhân lúc yên tĩnh ra ngoài sân đi bách bộ, đọc kinh. “Người anh em” bắt gặp, ngạc nhiên bảo phải quay vào nhà, nhưng rồi lại lân la gợi chuyện. Anh tưởng “nhân dân” đã nổi dậy đâu đó xong xuôi, anh chỉ cần vào tiếp thu thành phố! Anh không hiểu nổi vì sao vẫn còn “Mỹ Ngụy” ở phía trước bắn lại “anh”? Qua vài câu trao đổi, chỉ thấy anh là người thật thà, dễ mến. Trong đêm dài súng đại liên của anh nổ dòn tan và trải những hàng lửa trên nền đen của bầu trời, tranh sáng với ánh hỏa châu. Vài ngày sau ngôi chùa lại bị bỏ trống. Cả khu phố không còn một ai, không còn “quân thù”, chưa thấy “quân bạn”, những người lính Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, thần tượng của tuổi thơ tôi. Ngoài phố chỉ có hai đống chi đó thật to. Tôi ngạc nhiên khi được biết đó là hai xác chết đã trương phình như hai con bò. “Người anh em” của đêm trước chăng? Tôi không tưởng tượng nổi xác chết có thể phình to như vậy. Năm ấy tôi có 12 tuổi.
Nhìn ra khu vườn trước nhà, cây cỏ vẫn xanh tươi, các nhóm hoa của nhà chen xuân ganh sắc với những chậu hoa khách vừa đem biếu cách đó vài hôm. Hoa nhỏ lệ chăng? Nếu tâm hồn còn chút bình tĩnh, thì có thể thấy những hạt sương sớm đọng trên cành hoa. Như mọi buổi sáng, nhưng buổi sáng hôm ấy, những giọt sương sớm đã trở thành giọt lệ... Hoa khóc, hay lòng người sầu thảm? Lắng tâm hồn, ta vẫn nghe chim hót. Nhưng tiếng hót sáng nay không phải để đón chào bình minh, mà là tiếng kêu kinh hãi, thương tâm.
Bốn câu đầu của nhà thơ diễn tả ý nghĩa thiên nhiên vẫn mãi tồn tại, mặc dù những cảnh chết chóc điêu linh do con người gây ra. Quốc gia là gì? Phải chăng chỉ là một trong những tham vọng kiêu căng vô bờ bến của con người? Quốc gia rồi cũng tan nát, nhưng sông núi, cỏ cây, hoa lá, vẫn còn đây. Thật ra, điều quan trọng nhất đối với chúng ta, là con người cũng vẫn còn đây, cùng với núi sông, cây cỏ, với những khóm hoa đua sắc, và với với chim muông cầm thú trong Thiên Nhiên. Nói “hoa thương cảm mà nhỏ lệ” hay “lòng chim rung động” cũng chính là cảm thấy rằng Thiên Nhiên thông cảm với con người, rằng qua sự yêu thương, tấm lòng của Đất Trời hòa chung làm một với tâm hồn ta. Ý thức được điều đó, là ý thức được rằng “ta sẽ không bao giờ mất đi. Tâm ta làm một với Đất Trời, nên ngày nào Đất Trời còn thì ta cũng sẽ mãi mãi tồn tại với Đất Trời, vạn vật, Thiên Nhiên”...
“Sơn Hà” chẳng phải ai khác mà chính là ta. “Thảo mộc thâm”, “hoa tiễn lệ”, với “điểu kinh tâm cũng vậy mà thôi. Tất cả những thứ đó, gắn liền vào chữ “tại” (còn mãi” nơi câu đầu, bằng một chất keo vô cùng mầu nhiệm, đó là TÌNH THƯƠNG, dẫn đến CẢM THÔNG VÀ HỢP NHẤT.
Sau khi đã diễn đạt, cái tình trong cảnh, Đỗ Phủ dùng bốn câu sau của bài thơ để nói lên cảnh trong tình.
Cảnh đây là “suốt ba tháng liền khói lửa”, mong tin gia đình, nên nhận được lá thư nhà thì quý hơn ngàn vàng. Chỉ cần nói cảnh, không đả động đến tình, vì cái tình của cảnh ấy, ai nghe qua mà lại chẳng lập tức cảm thông? Đó là tránh cái lối rên rỉ ỉ ôi của bọn tầm thường vậy.
Cảnh đây nữa là: “Ông già bạc đầu, tóc lởm chởm, vuốt mãi mà vẫn không cài nổi cây trâm để búi lại được”. Ở đây cũng vậy. Ta chẳng cần phải tìm hiểu ông già do loạn lạc nên suy dinh dưỡng bị rụng tóc, hay tuổi cao vụng về run rẩy không cài được trâm, hay bấy lâu sống trong cảnh điêu linh, không còn đầu óc nào nghĩ đến trâm cài giải mũ nữa, nên mặc cho tóc mọc lởm chởm, hoặc giả chạy loạn lâu ngày đã quên cả những động tác ấy, hay vì nhận được thư nhà nên mừng quá, búi tóc cũng không xong, hay gì khác nữa? Chúng ta chỉ cần hình dung ông lão loay hoay mãi mà cài tóc vẫn không được. Và tất cả cái tình của ta đối với ông lão sẽ tự nhiên hiển lộ ra, trong tâm hồn ta, trong “hoa”, trong “điểu”, trong “thảo mộc” trong “sơn hà”...
Bài thơ xuân thứ hai của Đỗ Phủ mà tôi muốn chia sẻ với bạn đọc là bài:
Tuyệt Cú
Giang bích điểu du bạch
Sơn thanh hoa dục nhiên
Kim xuân khan hựu quá
Hà nhật phục quý niên?
Dịch nghĩa:
Màu nước biển của mặt sông khiến cánh chim càng thêm trắng
Nền xanh của núi khiến sắc hoa càng thêm rực rỡ như ngọn lửa muốn cháy bùng lên
Nhìn mùa xuân này lại sắp trôi qua
Tự hỏi: ngày nào sẽ đến năm ta trở về?
Loại thơ năm chữ bốn câu này rất súc tích, và cũng rất mạnh mẽ, gần với thơ Hài Cú của Nhật. Thường người ta dựa vào một cảnh trí độc đáo, hay đúng hơn là một lối nhìn độc đáo về một cảnh trí, rồi dồn tất cả cái tình cảm mà người ta muốn diễn đạt vào câu cuối.
Ở đây, Đỗ Phủ nhìn cánh chim trắng, đặc biệt trắng, vì được đặt trên màu nước biếc của mặt sông. Người thường đặt cánh chim trên nền trời. Tiên sinh lại lấy nước sông làm nền. Tức là phải ở trên cao, có lẽ trên triền núi, và phải đứng trước cảnh nước rộng, sông dài, cũng như trước một tình cảm bao la...
Đỗ Phủ trông hoa mà tưởng chừng như hoa sắp rực cháy lên, cũng vì cái nền xanh của núi quá đỗi xanh, khiến màu sắc của hoa vô cùng nổi bật. Nếu Đỗ Phủ ở trên cao mà ngắm cánh chim trên nền sông xanh biếc như ta đã nghi ngờ qua câu trên, thì cảnh hoa nở trên núi ấy chắc là phải gần với chỗ ông đang ngắm cảnh hơn là cánh chim. Ta không lạ gì bút pháp này: người thi sĩ tả cảnh ở xa trước, rồi mới từ từ nhích lại chỗ mình, tả những cảnh vật ở gần mình hơn, để rồi đi vào trong chính nội tâm của mình.
Thật vậy, khung cảnh nội tâm ông lúc ấy được phơi bày với hai câu kế tiếp. Đầu tiên là nhận xét mùa xuân mà ông đang chứng kiến lại đang trôi đi, như dòng sông dưới chân núi kia. Và trước dòng thời gian trôi ấy, ông tự hỏi: “Ngày nào mới đến năm ta trở về?” Xin nhận xét: mốc thời gian vẫn là ngày, nhưng đơn vị đo lường thời gian của Đỗ Phủ là năm. Điều nay cho biết cuộc lưu lạc của ông kéo dài đã nhiều năm.
Cánh chim hôm nay quá trắng, đóa hoa hôm nay sao như rực cháy, vì sao? Vì nền nước, nền núi, hay vì “kim xuân khan hựu quá” (mùa xuân này đang lại sắp trôi qua)? Xuân mới vừa chớm nở, nay chợt thấy nó lại đã sắp qua đi rồi. Làm sao mà lòng chẳng xốn xang? Làm sao cho tâm hồn không khắc khoải, không nóng nảy “rực cháy” như đóa hoa kia? Và với tấm lòng ấy, làm sao cảnh vật lại có thể không bất thần đổi khác? Husserl mà đọc bài thơ này, chắc sẽ không khỏi ca ngợi Đỗ Phủ là nhà hiện tượng học trước ông 12 thế kỷ!
“Ngày nào mới đến năm ta trở về?” Đã ba mươi mùa xuân rồi, và xuân nay lại đang trôi qua. Riêng tôi vẫn chưa trở về. Và ngày càng qua đi thì quê hương lại càng xa lạ. Một ngày kia, ta sẽ là khách du lịch trên chính đất nước của mình. Người thân còn đó, nhưng còn đến bao giờ? Bổn phận chưa làm được mảy may, mà đã ba mươi mùa xuân trôi...
Mai này, ta nhìn ra cửa sổ, nâng cánh thư nhà, vuốt mái tóc bạc, có thấy cánh chim đổi sắc, đóa hoa biến màu?
NGUYỄN HOÀI VÂN
CHÚ THÍCH:
(*)Chữ “kim” ở đây đọc là “câm” cho hợp vận.