Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

HỒ DZẾNH,

THƠ VĂN CỦA NỖI

THỐNG KHỔ KIẾP NGƯỜI

 

NGUYỄN MẠNH TRINH

 

\ăm 1943,  vào lúc thịnh thời của thơ mới,  nhà xuất bản Á Châu cho ra đời một tập thơ  khá lạ:  Tập thơ Quê ngoại của Hồ Dzếnh với lời giới thiệu: ‘  Lần đầu tiên thi ca Việt Nam  được tô điểm một cách trau chuốt bằng ngọn bút linh diệu của một nhà thơ ngoại quốc..” Thực ra,  nói nhà thơ ngoại quốc là chưa chính xác lắm, nhà thơ Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh ,  một người có cha Tàu mẹ Việt . Ông viết về đất nươc quê hương của mẹ : Quê Ngoại.

Tập thơ ra đời đã là một viên châu ngọc của thi ca Việt Nam. Nhiều bài thơ ,  đã trở thành bất tử và ngôn ngữ ấy  đã  biểu hiện được tâm tình một thời của dân tộc Việt Nam. Tạp chí Tri  Tân  đã có nhận xét : Tên tuổi của người Minh Hương ấy,  văn học quốc ngữ không nề hà gì mà chẳng đón tiếp như đã đón tiếp bao nhiêu những nhà văn hữu tài khác,..”

Trong tập thơ ấy,  người yêu thơ đã tìm ra được rất nhiều những  bài thơ tuyệt tác.  Có những bài thơ được phổ nhạc và trở thành quen thuộc đến nỗi như là một ngôn ngữ thường hằng và sống động .

Những câu thơ thật quen thuộc  và hình như lúc nào cũng tiềm tàng những cuộc sống riêng , những tâm tư riêng nên đã thành những ấn tượng không thể phai nhòa  trong cảm quan người nhận.

Như trong “Cảm xúc":

 

“Cô gái Việt Nam ơi!

Nếu chữ hy sinh có ở đời

Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực

Cho lòng cô gái Việt Nam  tươi”

 

Câu thơ ấy , hình như có nhiều người nói  và viết , đến nỗi tưởng như là của chung  và có nhiều người không biết mình đã nói hoặc viết của Hồ Dzếnh.

Hay những câu thơ được phổ nhạc . Tuyệt vời !

 

Như trong “Ngập ngừng”:

“Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé

để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân

ngó trên tay, thuốc lá cháy rụi dần..

Tôi nói khẽ: Gớm làm sao nhớ thế…

… Tôi sẽ trách- cố nhiên ! – nhưng rất nhẹ

nếu trót đi, em hãy gắng quay về

tình mất vui khi đã vẹn câu thề

đời chỉ đẹp những khi còn dang dở

thư viết đừng xong thuyền trôi chớ đỗ

cho nghìn sau .. lơ lửng với nghìn xưa..”

 

Hay trong  “Mùa thu năm ngoái"

 

“Trời không nắng cũng không mưa

chỉ riu riu rét cho vừa nhớ nhung

chiều buồn như mối sầu chung

lòng im nghe thoảng tơ chùng chốn xa

đâu hình tàu chậm quên ga

bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày..”

 

hoặc "Màu cây trong khói”:

 

"trên đường về nhớ đầy

chiều chậm đưa chân ngày

tiếng buồn vang trong mây

chim rừng quên cất cánh

gió say tình ngây ngây

có phải sầu vạn  cổ

chất trong hồn chiều nay?

Tôi là người lữ khách

 màu chiều khó làm khuây

Ngỡ lòng mình là rừng

Ngỡ hồn mình là mây

Nhớ nhà châm điếu thuốc

Khói huyền bay lên cây”

   

 Những câu thơ đã được nhạc tháp cánh  và gây được xao động cho người đọc , người nghe. Những bản nhạc tới bây giờ nghe lại trải ra một không gian bàng bạc thương nhớ. Mà tình cảm thương nhớ thì  ở bất cứ thời gian không gian nào cũng giống nhau cho nên cảm xúc cũng vẫn y nguyên không vì thời gian mà phai phôi.  Hồ Dzếnh vẽ tranh , không bằng đường nét,  không bằng  màu sắc hiện thực mà chính bằng cái tâm cảm  của một nỗi buồn  mà hiện hữu có lẽ từ rất lâu , từ lúc mà con người còn thuở sơ khai  hoang  dã…

Trong “Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến", tác giả Nguyễn Tấn Long đã trích dẫn nhận xét  của nhà văn Mai Thảo , một lời khen tặng nồng nhiệt và đầy cảm tính:

“Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở ra của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ lạnh buốt,  thơ Hồ Dzếnh hơn cả Xuân Diệu , và theo tôi , hơn cả  Nguyễn Bính  đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng gõ vui từng nhịp  nắng trên mênh mang đài trán thnah niên . Tôi nhớ mãi cái cảm giác  của tôi, 20 tuổi , tiếp nhận một tập thơ  cốm mới đậm đà , một tập thơ mười tám cái xuân đầy , đọc mỗi câu tưởng  tưởng như có mật cdó đường ngọt trong cổ. Thơ Hồ Dzếnh tiền chiến là cái trạng  thái ngu ngơ trong suốt nhất của một tiếng  thơ mà chủ đề là tình yêu  và ánh sáng. Ngó thật kỹ , Quê Ngoại không hằn một vết nhăn . Với tôi , một tập thơ đầu tay phải như thế. Phải có cái khí thế vạm vỡ của sống như một lao vào, cái vóc dáng của yêu như một kín trùm dào dạt..”

Thơ Hồ Dzếnh là của niềm tâm cảm gờn gợn trong lòng, của nỗi nhớ mong về những cảnh thổ cũ,  quê quán xưa. Không gian ấy rất mơ hồ , những nét phác họa đôi khi chỉ dệt bằng cảm giác, bằng những nét bút vờn của ảo ảnh tạo thành.  Cảnh vật cũng bình thường , không có gì khác lạ nhưng khi đã chuyên chở những tâm ý thì lại khác hẳn , nó vời vợi chiều sâu và hun hút độ dày.  Trời không nắng cũng không mưa / chỉ riu riu rét cho vừa nhớ nhung...  Có một chút gì không tròn vẹn. Không mưa , không nắng , nhưng lại có nỗi  lạnh lẽo của nhớ nhung. Hình như người và cảnh cùng thở chung với nhau một nhịp tim , của những lỡ làng lửng lơ lơ lửng…

Năm 1942, Hồ Dzếnh in “Chân trời cũ”. Một gia đình dòng tộc người Minh Hương được phác thảo lại trong những thiên truyện ngắn rất gần với những trang tự thuật. Nhân vật xưng tôi, có khi là chính bóng dáng của tác giả, tuy được phác họa trong sự cố ý làm mờ nhạt đi để những nhân vật khác nổi bật lên.   Một người cha người Hán giang hồ  đi sang xứ người lập nghiệp gặp người mẹ người Việt  và thành một tiểu gia đình  mà số phận họ buộc trói  theo dòng đời trôi nổi. Người  mẹ Việt , là hình bóng muôn đời của sự hy sinh, là gà mẹ xòe cánh ra ấp ủ đàn con giữa những đe dọa của cuộc đời. Rồi những người thân của nhân vật xưng tôi: chú Nhì , người anh cả, đứa cháu đích tôn, cô em Dìn, chị đỏ Đương, người chị dâu Trung Hoa, ông anh hai trụy lạc ,… tất cả sống trong một xã hội mà những lề thói , những phong tục  là những sợi dây buộc chặt vào một đời sống mà sự thiếu thốn và nghèo khổ luôn luôn lai vãng… 

Trong “ Chân trời cũ “ chúng ta thấy một đời sống cũ đã qua nay trở lại  từ cái tâm hoài cổ,  từ những suy tư bắt nguồn từ sự nâng niu những kỷ niệm khó quên của một đời người.  Và,  vì sống ở xứ sở bên mẹ nên quê ngoại lại gần gũi hơn và chan chứa tình cảm.

 Nhà văn Thạch  Lam trong đề tựa của “ Chân Trời Cũ “ đã viết những dòng giới thiệu mà về sau này Hồ Dzếnh đã coi như người tri kỷ, hiểu được cả những góc cạnh  thâm cảm của ông :

“... Tác giả đã đau khổ trong cuộc sống;  và chúng ta nhận thấy ông ưa thích quay về dĩ vãng, để lại khiến những đau khổ cũ trở dậy và thêm sắc mắc hơn nữa.  Cho nên những truyện ông kể cho chúng ta nghe đều có một mầu sắc riêng, đều nhuộm một tiếc hận thấm thía. Ông chỉ kể những chuyện ấy thôi, nhưng mà đủ có mực thước để khỏi thành ra phô phang, và cũng đủ rung động để độc giả cảm thấy sự thành thực , sự “ đã sống” của những chuyện đó.

Những nhân vật mà ông trình bày đều linh động cả. Mỗi người đều có bản ngã riêng, và chúng ta nhận thấy-tình cờ hay là số mệnh?- người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ. Người mẹ , người con cả, người con thứ cho đến cô yên, cái cô gái nuôi đặc biệt Việt Nam , vẫn sống trong một gia đình không phải của mình, để mà chịu đựng bao nhiêu vất vả và bất công , tuy có được người mẹ nuôi biết thương đến. Cái đời sống tối tăm và lặng lẽ ấy không đi đến đâu cả , và tác giả để chúng ta thấy thương qua số phận một dân số nghèo khó  ở các tỉnh đông đúc hay nghèo nàn , cuộc sinh hoạt khó khăn trên những đồng ruộng bạc màu…”

Cái chung nhất của thơ và văn Hồ Dzếnh chính là nỗi  đau đớn của kiếp người.  Trong bài thơ lục bát “ Tặng vợ tôi khi còn sống “  có câu thơ viết trong buồn khổ tận cùng:” mùa đời rụng hết vàng xanh/nỗi đau thương cũ nay thành máu thơ..” “ Máu thơ”, của những mảnh đời lận đận ,  của những lời thống thiết khi một người chồng  vừa mất vợ bồng bế đứa con mới sinh còn đỏ hỏn đi xin sữa để nuôi con . “ Máu thơ” , của người bị lôi cuốn vào trong tâm bão thời cuộc, có tâm hồn nghệ sĩ , muốn mang tâm não  và tài sức vào bút mực để lại cho đời nhưng không toại chí. Mỗi ngày làm anh thợ  đúc thép  , đạp xe tư Hà Nội qua cầu Long Biên tới Gia Lâm , nhà văn ấy , nhà thơ ấy có nhớ lại một thời tung hoành trường văn trận bút   trong nỗi  chạnh lòng…

Năm 1993, ở hải ngoại , nhà xuất bản Thanh Vân lại in  tập hồi ký“ Quyển truyện không tên” và tập thơ “Quê Ngoại II”. Tập hồi ký ấy khá ngắn nhưng chất chứa cả một biển khơi tâm tư của người viết.  Hồ Dzếnh mượn lời của đứa con vừa bốn tháng rưỡi tuổi vừa mất mẹ để nói lên cái tâm cảm và hoàn cảnh của mình .  Thời gian mà ông kể lại trong khoảng năm  1947-1950  và không gian là vùng khu tư Thanh hóa , nơi cả gia đình bé nhỏ vì không sống nổi ở vùng đồng bằng phải đi lên vùng ngược mưu sinh nhưng rốt cuộc nghèo khó và bệnh tật đã đẩy họ trở về,

Đọc những trang hồi ký, độc giả có nhiều lúc rơi nước mắt.  Tình cảnh như thế là tận cùng. Hãy thử tưởng tượng chỉ trong vòng vài tháng, người thơ phải gạt nước mắt đau đớn chôn đưa con trai đầu lòng và người vợ bất hạnh. Chôn đứa con trai, với tất cả gia sản nghèo nàn :”con búp bê đất mất đầu, hai đôi tất bằng vải, cái kèn tu huýt, đôi dép cao su mòn đế và hai bộ quần áo đã sờn rách..” và khi tống táng vợ :” Đây không phải là một buổi liệm. Bởi nếu  là liệm thì phải tắm rửa thay quần áo mới. Mẹ tôi không có một mảnh vải nào cả. Để cho người chết đỡ tủi – người chết có tủi không?- cha tôi cổi chiếc áo cánh ướt trên người , đắp lên vợ..”

“Quyển truyện không tên “ kể toàn là những chuyện đau lòng.  Người mẹ cho con bú mà không đủ sữa vì thiếu dinh dưỡng, đứa con nhay đến nỗi có một chút máu vương ở  miệng đứa bé hoặc cảnh đứa bé húc mãi vào vú mẹ để bú mà không được. Hoặc là tình cảm thê thảm , người cha bồng đứa con vừa bốn tháng rưỡi đi xin sữa sau khi người mẹ đã chết vì thiếu thuốc thang . Tất cả , những thảm kịch được kể lại với gờn gợn một chút gì phẫn hận. Lúc chiến tranh , có khi còn có nhiều thảm cảnh khác , nhưng tác giả có khi đi sâu vào suy tư để thấy được những nguyên do của thảm kịch.   Thời thế đảo điên , văn chương cũng chẳng hứa hẹn điều gì tốt đẹp tươi sáng . .

 “..Chiến cuộc chỉ mới bước vào năm thứ hai. Còn lâu, còn gian nan , còn gay go mới đến ngày đoàn tụ. Sinh kế đã cảm thấy khắc khổ ở mọi lớp người, trước viễn tượng chiến tranh gần như vô cùng tận. Gánh gia đình, từ ngày có thêm tôi, mới bắt đầu nặng nhọc.Nếu đời là một thiên lệ sử, thì ngay buổi tôi sinh ra, những dòng chữ khắc khổ đã thành hình.

Tôi sinh ra giữa một kỷ nguyên khác lạ , kỷ nguyên của những con đường thênh thnag bị phá vỡ, cầu đổ sụp, nhà cửa tiêu tan, xe cộ mất lối. Người đô thị tản mạn lên rừng xanh, những cô gái xinh tươi của cuộc đời nhung lụa biến thành những cô hàng nước, những bèo bọt phong trần.Cuộc đổi đời đó thật là vĩ đại và kinh khủng, lay chuyển hết mọi tầng lớp, giai cấp, san phẳng hết mọi chênh lệch vì sang giàu. Nếu chỉ có một trạng thái biến đổi đó thôi thì chưa đến nỗi gay gắt . Đằng này, buồn thế hệ gặm nhấm vào từng lòng người, cái phẫn uất cay chua nhào thành một loại cảm giác kỳ dị, gán lên cuộc sống một hình thức sượng sần khó tả. Cái gì dở, trái, đều được văn chương mới mạng danh bằng những tiếng kêu ròn: tiểu tư sản, phong kiến. Muốn vào trong cái thế giới vừa tân tạo hôm qua, con người bắt buộc phải qua một lớp lột xác, hay ít nhất, cũng phải có ý thức lột xác. Thành ra có nhiều lúc con người băn khoăn tự hỏi mình sao lại phải điêu đứng như vậy, và nếu mình cứ giữ thành phần của mình thì đã sao chưa?

Nhưng tiểu tư sản lại là một chất nhựa- độc vì người ta bảo thế- đã nuôi lớn một lớp sống trước để cho lớp sống sau này lên án. Sau này món ăn đã khác, tư tưởng đã thay, loạt nhân sinh như tằm ăn lên, đã gặp đúng hoàn cảnh đón tiếp. Còn cái loạt trước , mới đến rầy rà. Máu là máu cũ, ngũ tạng đều thấm lớp men chua, lời nói , tâm tình  sặc sụa những lãng mạn.

Cha tôi rơi đúng vào cái ngã ba đó. Tôi cũng sinh nhằm vào thời đó. Một cái cũ đã chắt chiu ôm ấp một cái mới, trong khi cái mới xung quanh vẫn tìm cách đào thải những nếp sống trái ngược , tôi thấy là cả một chuyện kỳ..” 

Tô Hoài trong  hồi ký “Chiều chiều “cũng phân bua về trường hợp Hồ Dzếnh bị từ chối không được nhận việc  làm gần gũi với văn chương mà phải qua Gia Lâm làm thợ   , cam chịu số phận của một công nhân:

“….Hồ Dzếnh  đã dịch và in một tiểu thuyết nhật cho nhà xuất bản Thanh Niên. Nhà xuất bản muốn nhận Hồ Dzếnh vào làm . Những cơ quan có trách nhiệm xem xét thấy có thời gian Hồ Dzếnh làm đại diện bên Nhật của báo Thần Chung ở Sài Gòn. Mọi việc báo và xuất bản của các cơ quan khác , chẳng mảy may bàn đến hội, nhưng đến lúc có trắc trở thì bù nhìn chúng tôi được khiêng ra trả lời. Tôi có đọc một bài báo Trần Thanh Địch viết về Hồ Dzếnh có câu trách hội cái sự này. Và Hồ Dzếnh sau đó, đi đường gặp tôi, coi như không nhìn thấy…”

 và một đoạn khác cũng Tô Hoài:

“Rồi chuyện tập kết giữa hai miền. Trong số người miền Nam ra miền Bắc , hoặc miền Bắc vào miền Nam có những anh em văn nghệ sĩ . những văn nghệ sĩ ở miền Bắc thường tập trung ở Hà Nội, đã vào Sài Gòn với con số không ít. Trong số đông này không có Hồ Dzếnh. Không chỉ thế , dzếnh còn là một trong số những anh em văn nghệ đi tuyên truyền giải thích , bằng nhiều hình thức, đối với anh em đồng nghiệp đang hoang manggiuã đi hay ở-để giữ chân họ lại . Và  sau năm 1954 trong Đại Hội Văn Nghệ toàn quốc , việc anh được bầu vào ban chấp hành Hội Văn Học Nghệ Thuật trong khóa đầu tiên là chuyện không lạ ..

Đầu năm 1956 tôi ở trong đoàn văn công Cải Cách ruộng đất  liên khu Tư ra Hà Nội, chuyển công tác sang nhà xuất bản Thanh niên. Cơ quan này đang thiếu một cán bộ biên tập có tay nghề nhờ tôi tìm một người.  Tôi nghĩ đến hồ Dzếnh . Và giới thiệu qua đôi nét về khả năng anh. Đồng thời, tôi đến nói chuyện với Dzếnh thì anh rất vui. Đôi cía giấy tờ thủ tục làm xong ngay đó. Một cán bộ trong nhà xuất bản liền sang hội Nhà Văn hỏi sơ qua một lời về Hồ Dzếnh cho tròn trách nhiệm. Nhưng một vị ở đây đã tỏ vẻ ngập ngừng. Vị ấy bảo rằng “ hãy thong thả chút đã “ và thế là xong. Nghĩa là không xuôi. Một lời nói. Không có công văn . Không có chữ ký. Không có khuôn dấu.

Tôi đến tìm Hồ Dzếnhvà nói lại mọi sự việc. Anh có hơi đổi sắc mặt một tí tẹo , nhưng miệng vẫn cười. Một cái cười cam chịu nhẫn nhục. Xem như đây chỉ là chút “ không may” được nhích thêm vào chuỗi dài không may trong đời mình.

Thế là cuối cùng. Dzếnh trở thành một công nhân . Thực thụ là người thợ cầm búa qua nhiều năm tháng…”

Nhưng có người lại nghĩ khác đi . Hồ Dzếnh bị trù úm vì đã viêt bài thơ “Nhớ Nguyễn Sơn “, một tướng tư lệnh liên khu Tư rất có cảm tình và giúp đỡ văn nghệ sĩ rất nhiều.  Nhóm Nhân văn Giai Phẩm khi tướng này  mất cũng viết nhiều bài Khóc Nguyễn Sơn và cùng đăng vơi 1bài của Hồ Dzếnh. Lữ Giang viết :”anh có nhiều cảm tình với tướng Nguyễn Sơn  nhà quân sự rất yêu văn nghệ sĩ nên bài báo Nhớ Nguyễn Sơn của anh cũng được chú ý..” Và vì   “ được chú ý “nên muôn năm vẫn phải lao động chân tay, quai tay búa để thay cho cầm bút, như thế còn lòng dạ nào để sáng tác nữa?

Quyển truyện Không Tên mang rất nhiều tâm tư của Hồ Dzếnh. Mảnh đời đau thương  biểu lộ, ngoài tấn thảm kịch còn lồng trong những suy tư  về văn nghệ, về thế thái nhân tình , về cái  buộc trói của chính trị vào văn hóa. Có lúc , ông cũng muốn cầm bút như kiểu theo dòng của cung cách “ quốc doanh”. Nhưng những bài thơ ấy , chỉ là những âm vang mất biệt không dấu tích. Như  bài thơ “ Bến nước Thanh Trì”, “ Khúc hát cầu phao”, “Ngày ấy xuân về “… Dù cố gắng đi theo “ Cách mạng” , nhưng ông viết khó khăn và hầu như bỏ bút để kiếm sống . Ông chua chát:” Con mắt thời đại đã khác . Nó sắc và to, không có rèm mi nào dịu. Tôi, tôi ưa nhìn thực tại với chút bóng dịu dàng dẫu là chút bóng mơ mộng ..”Chán nản cực dộ hơn:” Nào hành lý vợ con, nào áo quần tư tưởng . Mắt ta đã mù. Lưng ta đã mỏi. . Con người văn nghệ ngậm kín nỗi đau lòng…” Kỳ quặc thay là cái chế độ mà “tác phẩm của một cá  nhân tuy được mang tên mình , phải có xen vào công trình tập thể ..”

Có lúc , nhà thơ bi quan như muốn quyên sinh. “ Nằm đây tưởng chuyện ngàn sau/ lung linh nến cháy hai đầu áo quan/ gió lìa cành lá không vang/ tin ta vĩnh quyết trần gian hững hờ”. Đời sống toàn bi thảm, những đoạn đường trần chông gai bít lối, nên cái đau đớn , cáo nỗi niềm như cũng bị khâm lịệm theo. Người nằm trong ba tấc đất nhưng vẫn còn đó nỗi đau nhân sinh :

 

“ngậm ngùi nhớ trắng rừng mai

cảm thương sông nước ghi bài điếu tang

ngựa gầy bóng gió mênh mang

cờ đen lối cũ, cây vàng nẻo xa

ta nằm trong ván trông ra

tủi thân vì thấy người hoa vẫn cười

ta toan … giận dỗi xa đời

chợt hay: khăn liệm quanh người vẫn thơm

nát thân không nát nổi hồn

lẩn trong cái chết vẫn còn cái đau.”

 

Ở hải ngoại, nhà xuất bản Thanh Vân in tập thơ Quê Ngoại  II – Tiếng hát thiên nga. So với tập thơ đầu thì tập này chỉ có giá trị từ những kỷ niệm đời của Hồ Dzếnh , in thơ lại như một cách thế để tưởng niệm. Phần nhiều những bài thơ là để tăng riêng cho hai bà vợ: bà Hồng Phúc và bà Hồng Nhật. Có nhiều bài thật cảm đông như bài tặng bà Nguyễn Thị Hồng Nhật:

 

“ Mình vừa là chị là em

tấm lòng người mẹ trái tim bạn đời

mai  này tới phút chia đôi

 hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?

Xót mình đã lắm thương đau

Tôi xin làm kẻ đi sau dỡ mình

Cuộc đời đâu phải phù sinh

Nước non chan chứa nghĩa tình mình ơi!”

  

Viết về bài thơ này, Mai Quốc Liên đã bình như sau:

"..Thật là cổ kim chưa có  một bài thơ nào lớn như vậy . Tôi có dẫn lời ông Viên Mai bình một bài thơ hay ngày xưa, nói rằng “ lời tuy giản gị  nhưng đọc lrn làm người nghe biến cả thần sắc và dù cho Đỗ Phủ , Lý Bạch sống dậy cũng phải cúi đầu.

Thật vậy bài thơ này là kết tinh tình cảm giữa anh chị trong mấy chục năm chia sả, gắn bó, thăng trầm và là lời nói sau cùng vĩnh biệt người bạn đời. Nó là viên ngọc của văn chương Lời giản dị mà thốt tự đáy lòng làm người đọc ứa nước mắt.

Hôm tôi đọc xong thì liền có mấy nữ sinh vuên Đại Học Y Khoa dự ở đó mượn để chép lại Đặc biệt câu cuối của bài thơ thật là một triết lý phù sinh rất lớn lao:” Cuộc đời đâu phải phù sinh/ nước non chan chứa nghĩa tình mình ơi!”

Có một người bạn trẻ  tri kỷ   được Hồ Dzếnh làm thơ tặng . Đó là nhà  văn Nguyễn Minh Châu người đã viết “ AI điếu cho  một giai đoạn văn học minh họa.”.  Một bài “ Cầu Giát “ viết bên giường bệnh bạn  và bài “CỎ lau" viết nhân ngày giỗ đầu  bạn.  Trong “Cầu Giát"  có những câu: "cái đẹp thiêng liêng đích thưc/nỗi đau truyền kiếp văn chương? Anh bnạ đi tìm chân mỹ/bao giờ tới đích hành hương..” Và trong “Cỏ Lau”: “ giã từ nhé , Nguyễn Minh châu/trang văn tâm huyết chiều sâu ân tình..” Phần đông những bài thơ trong Quê Ngoại II đều tăng bà Hồng Phúc , có bài chan thnah cảm động , như bài "Giản Dị":

 

Em ăn, em nói , em cười

Kiếp này không có hai người như em

Kinh thành quần nhiễu , hàng len

Em tôi áo trắng , quần đen sơ sài

Ai mà để ý vào ai

Quần đen lẩn bóng áo gai lẩn mầu trên đời hai đứa yêu nhau quần đen hóa đẹp , áo sầu hóa vui

Tình là hạnh phúc chia đôi

Hương lan kẽ đá trăng soi dậm trường

Đừng mong ước cả thiên đường

Hãy xin lấy nửa tấc vươờn vắng hoa.”

 

Khi cuối đới Hồ Dzếnh dự trù sẽ viết “Chân trời Mới" về xã hội hiện tại để đối chiếu với “ Chân trời Cũ” thuở xa xưa. Nhưng, dự định vẫn chỉ là dự định. Có lý do sức khỏe nhưng cũng có lý do là với tâm thức như thế khó lòng ma viết được một chân trời xán lạn . ..

Từ những tác phẩm đã in cũng như những di cảo được phổ biến , thơ và văn Hồ Dzếnh như những tiếng than tận trong phế phủ, bị trầm uất và nén tới tân đáy lòng.  Đau đớn đã hòa vào trong máu huyết để mỗi câu văn , mỗi lời thơ là những giọt máu hồng thành mực cho ngòi bút. ..