Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

 

HÀ NỘI QUA

NHỮNG TRANG SÁCH CŨ...

 

NGUYỄN MẠNH TRINH

 

 

Với tôi, Hà Nội chỉ là một thế giới xa lạ nhưng đầy tưởng tượng.  Năm 1954, khi di cư vào Nam, lúc ấy tôi còn quá nhỏ để có một ký ức.  Phần đông, kỷ niệm trong đời sống của ấu thơ tôi đều là Sài Gòn, thành phố mà tôi lớn lên và trưởng thành.  Mỗi con phố, mỗi ngỏ hẻm, đều in dấu những tháng ngày trải qua, luôn sinh động trong bộ nhớ.  Thành phố ấy, có thể như một phần đời sống...

Nhưng, Hà Nội, lại là một thành phố trong tưởng tượng với tôi.  Và, vì không thực nên có những nét đẹp huyền ảo của vẽ vời suy tư, của những nhân vật được phác họa bằng tất cả những nét lung linh nhất.

Trong văn chương, tôi đọc những cuốn sách, để thấy lại cả một khung trời tưởng nhớ, một thánh địa để nghĩ đến và tìm về.  Những Thạch Lam, Vũ Bằng, Hồ Hữu Tường,... thời tiền chiến đến Mai Thảo, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn...  của 20 năm văn học miền Nam, đã làm rực rỡ hơn trong tôi nhưng nồng nàn của một thế giới thơ mộng đã mất hút xa nhưng thật gần gũi trong tâm tưởng.

Nhưng khi đọc Một Ngày Tại Hà Nội, 18-2-1973 của Phạm Huấn, tôi như đi lạc vào một thế giới khác mà nỗi bồi hồi cảm xúc đã lan ra từ những dòng chữ, những biểu tỏ.  Không phải như trường hợp “Hồi hương ngẫu thư” sao lại giống như trong suy nghĩ.  “Chắc chắn trong buổi trùng phùng cũng có nỗi xúc động ứa lệ” tác giả đã nói như thế trong buổi phỏng vấn.  Hạ Tri Chương ngày xưa “Thiếu tiểu Ly gia lão đại hồi.  Hương âm vô cải mấn mao thôi.  Nhi đồng tương kiến bất tương thức.  Tiếu vấn “Khách tòng hà xứ lai”.  (Xa nhà ấu thơ, về đã già.  Quê mùa giọng cũ, tóc sương pha.  Bạn cũ thân quen nay mặt lạ.  Cười hỏi: “Khách về tự chốn xa?”)...

Phạm Huấn thì khác.  Về chốn xưa, nhưng trong một cung cách khác.  Của một người đi nói chuyện với những người tuy cùng máu mủ đồng bào nhưng là đối thủ dàn ra hai trận tuyến.  Về, với cái đón tiếp lạnh lùng đầy nghi kỵ.  Về, với cái tâm trạng vỡ òa của một người vừa làm vỡ một cái gì trân quý nhất.  Cái tâm trạng của người vừa đánh mất một phần đời sống mình.  Trong tình cờ của lịch sử, những người mặc quân phục VNCH trở về nơi chốn mà mình đã rời bỏ thời gian trước.  Có một phút nao lòng với những tâm tưởng cũ nhưng cũng có nỗi rưng rưng của cuộc trùng phùng không ngờ tới được trong thời điểm ấy.  Sau Hiệp Định Paris, quân Mỹ đã rút về nước nhưng chiến tranh vẫn còn, vẫn còn cảnh những người đồng bào ghìm súng hầm hè nhau trong những cuộc chiến sinh tử.  Miền Nam, miền Bắc, hai phía vẫn chưa ngừng cuộc chiến ủy nhiệm thời chiến tranh lạnh.  Tác giả, trong Một Ngày Tại Hà Nội, đã có nỗi niềm chua chát đắng cay của những người đã đặt niềm tin vào một điều gì rồi bị phản bội một cách trắng trợn.  Thành phố đã đổi, những xưa cũ đã mất đi và những cảnh tượng mới làm quăn lòng người trở về.

Ông viết: “...ngồi trên chuyến xe di chuyển từ Gia Lâm về Hà Nội, nhìn thấy Hồ Gươm, Tháp Rùa, tôi có trong lòng một nỗi xao xuyến muốn làm ứa lệ.  Tôi biết rằng, nhìn thấy Hà Nội đây, là nhìn thấy hàng triệu đôi mắt của người xa Hà Nội năm nào.  Tôi đang di chuyển an lành trên những đường phố Hà Nội đây, là đòi hỏi bằng xương máu của bao nhiêu bạn hữu, bao nhiêu huynh đệ, bao nhiêu người quen biết và không quen biết, đã chết và còn sống, của 17 triệu dân miền Nam yêu nước đang trông ngóng một ngày hòa bình, thống nhất nhưng không phải là hòa bình với bất cứ giá nào, thống nhất với bất cứ giá nào.  Tôi hiểu được tại sao con người có tình riêng nhưng không thể tách rời ra khỏi tập thể.  Con đường này, xưa chúng tôi hàng ngày đi qua, cắp sách đến trường.  Căn nhà này, xưa, tôi đã ở.  Bạn bè tôi xưa, những ai còn, ai mất?

Người yêu tôi xưa, bây giờ bao tuổi, bao già?  Tôi có thể gọi tên từng đứa bạn, gọi y tên từng người con gái đẹp của Hà Nội khi xưa, tôi có thể chỉ đúng căn hà họ ở, bây giờ họ còn ở đây chăng?  Ngồi trên máy bay nhìn xuống, Hà Nội giống như một khuôn mặt kiều diễm.  Tháp Rùa chẳng khác cái nốt ruồi của thành phố!  Tôi biết rằng, nếu biết được tôi nghĩ như thế, có ai sẽ mỉm cười.  Cái cậu con trai nhảy chân sáo trên lối đi này khi xưa vẫn còn ẩn núp trong tôi thật sao?  Tôi mừng biết bao, khi nhận ra, với ba mươi năm liền nghe súng nổ, nhìn thấy khói, ngửi mùi tử khí, tai tôi chưa điếc, mắt tôi chưa mờ, mũi tôi vẫn còn phân biệt được những mùi hương phảng phất của sương mù tháng giêng Hà Nội.

Nỗi nhớ thương Hà Nội đã choáng ngập tâm trí đến độ trong khảnh khắc tôi không còn nhận ra.  Hà Nội Đã Không Còn Là Hà Nội Nữa...”

Nếu tôi trở về lại Sài Gòn, chắc chắn tôi sẽ có cảm xúc y hệt như vậy.  Những người muôn năm cũ.  Hồn ở đâu bây giờ?  Câu hỏi ấy, trong âm hưởng tạo thành nao nao cảm giác trong da thịt .  Một thi sĩ nào đó, đã gọi thành phố mất tên trong buổi trở về như một níu kéo để tìm về những hình bóng xưa.  Thi sĩ ấy, chắc cũng đồng điệu với tác giả Một Ngày Tại Hà Nội dù viết về Sài Gòn.  Tự nhiên, như là lời tâm sự của riêng tôi, trong lời thơ diễn tả...  Thơ chia sẻ như một tri âm với người tri kỷ...

 

Khi tôi trở lại tôi kêu tên Sài Gòn

Như ba mươi năm qua thường buổi sáng

Uống ly cà phê không đường đen đậm

Quán cóc hẩm hiu lưỡi đắng nụ cười

Khi trở lại phố xưa tuổi đôi mươi

Ngọn dốc cầu cao nghe chừng khác lạ

Bánh xe nào hằn dấu vết rã rời

Những hẻm cụt giấc khuya về vội vã.

Khi trở lại tôi gọi hoài tuổi trẻ

Như mắt em nồng nàn ánh mặt trời

Buổi sáng áo bay trong buồn lặng lẽ

Ai gọi ai cho héo úa tình phai

Con kinh nước đen mùi bùn vương vấn

Cỗ xe già nua về lại bến ven đường

Mưa như trút buổi chiều nào địa chấn

Em xa tôi lòng buốt xót vết thương

Khi trở lại tôi làm người dừng bước

Hai ven đường ngọn cỏ mọc dửng dưng

Chân lạ lắm đã hết rồi tiếng guốc

Cửa nhà em đóng lại rất lạnh lùng

Sài Gòn vẫn nhớ hay là trong quên lãng

Khách lạ tôi tạm trú dưới hàng cây

Thấy con sẻ ríu rít hoài dĩ vãng

Ba mươi năm thoáng ngủ giấc hao gầy...

 

Hà Nội – Sài Gòn, những nơi chốn tràn đầy kỷ niệm.  Mỗi một người tha hương, đọc những trang sách, ngâm những câu thơ, như bước chân hành hương trở về thánh địa tâm hồn.  Những lúc trời trở gió, trong cái gào thét lồng lộn của đất trời, tự nhiên nghe trong lòng mênh mang những rung cảm làm nặng nề vuông ngực.  Ở xứ người, chỉ một tên gọi, dù Hà Nội hay Sài Gòn, cũng chứa đựng đầy và mênh mang niềm nhớ.

Bài mở đầu cuộc phỏng vấn người từ một nơi chốn mà hành trình không ngờ trước được trong cái tình cờ của thời thế có âm vọng của những bàn tay vẫy gọi.  Rất văn chương nhưng cũng thật chân thành, ngôn ngữ như mở ra một cánh cửa để tưởng tượng ùa vào, để nỗi niềm người ly xứ như tượng hình bằng những chi tiết thực:

“...Hà Nội, bài hát của Hoàng Dương là Hà Nội 20 năm trước.  Hà Nội của một triệu người rời bỏ vào năm 1954.  Hà Nội với tà áo màu tung gió, với những tiếng guốc reo vui.  Hà Nội mà những người đứt ruột bỏ đi, đã nuôi nấng một mong ước, giữ chặt một niềm tin.  Hoàng Dương đã nói trong bài hát của ông “hãy tin ngày ấy anh về”.  Hà Nội 36 phố phường, Hà Nội mà nhạc sĩ Trần Văn Nhơn của chúng ta đã gọi là “Trái Tim của Việt Nam” , Hà Nội mà với mùa thu cuối cùng ta bỏ đi xanh xao như mất máu đó Hà Nội bây giờ ra sao?  Trong hai mươi năm chiến tranh tàn phá, trong hai mươi năm người Hà Nội bỏ đi, hai mươi năm Hà Nội sống dưới chế độ Cộng Sản, cái trái tim của Việt Nam đó đã đập như thế nào?  Những Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bông, Hàng Gai, Hồ Gươm, Hồ Trúc Bạch, Hồ Bẩy Mẫu...  Những gì thay đổi?  Người Hà Nội bây giờ sinh sống ra sao?..”

Trong những câu hỏi, Phạm Huấn đã trả lời thành thực bằng tấm lòng của mình.  Tâm cảm của một thanh niên Hà Nội bao giờ cũng tiềm ẩn nét lãng mạn, của một thời hoa mộng được dệt bằng những nỗi nhớ thương mong manh nhưng lại bền chặt nhất.  Mấy ai quên được một thời đã qua, mấy ai bỏ đi được những bóng hình khắc sâu trong tâm tưởng.  Về mái nhà xưa, nhưng chẳng được vào, để cảnh cũ như những dấu tích của tang thương của biển dâu thay đổi.

Trả lời câu hỏi: Thế anh đi bằng con đường đó, cây cột Đồng Hồ ở đường Bờ Sông có còn không? Phạm Huấn đáp:

“Cây cột Đồng Hồ vẫn còn.  Tôi có thể nói ngay với các anh là trung tâm thành phố Hà Nội, ngoài Tòa Tổng Lãnh Sự Pháp ở đường Trần Hưng Đạo (Gambetta cũ) bị sập, còn tất cả những đường phố chính mà trước kia biết rất đẹp như đường Lý Thường Kiệt, Gia Long, Tràng Tiền, Tràng Thi, chung quanh Hồ Hoàn Kiếm v.v.. thì còn nguyên vẹn.  Nhưng rất tiếc tôi không hiểu tại sao thủ đô Hà Nội sau 19 năm dưới chế độ Cộng Sản, bây giờ tiêu điều và xơ xác quá.  Không có một kiến trúc nào đặc biệt tại Hà Nội so với trước năm 1954.  Tôi tưởng Hà Nội tiêu điều nhưng không ngờ đến quá sức tưởng tượng như tôi nghĩ.  Khu trung tâm thành phố như Gia Long, Tràng Thi, Tràng Tiền... Nhà cửa trông rất là cũ kỹ, không được sửa sang quét vôi gì hết.  Tôi có cảm tưởng như đã 10, 15 năm nay không được quét vôi lại.  Đi trên những con đường đó, nhìn thấy dân chúng phơi quần áo, tôi xin lỗi được tả chân, phơi cả những cái quần đen, những áo màu cháo lòng trên cửa sổ thì còn gì là phố xá, nhà cửa của Hà Nội?

Hỏi: Anh có đi ngang qua căn nhà mà anh ở khi xưa không?

Đáp: Tôi có được đi ngang qua căn nhà trước khi di cư vào Nam tôi trọ học.  Tôi xúc động lắm, muốn khóc được.  Còn y hệt nhưng tiêu điều xơ xác trông thật buồn thảm.  Ở góc đường Lý Thường Kiệt và Gia Long gần trường trung học Nguyễn Trãi...”

Trước khi đọc Một ngày ở Hà Nội tôi đã đọc Đêm Giã Từ Hà Nội của Mai Thảo, Ung Thư của Thanh Tâm Tuyền, Áo Mơ Phai của Nguyễn Đình Toàn, Nhớ về Hà Nội của Nguyễn Mạnh Côn... Thế mà, sao kỳ lạ, vẫn chung một cảm giác.  Hai chữ Hà Nội như có một tính linh thiêng kỳ bí nào lôi cuốn.  Giở những trang sách, như thấy lại những khung cảnh cũ...

Mấy ngày hôm nay, ở Cali, trời trở lạnh.  Buổi sáng đi làm, đã phải mặc áo ấm và ngoài trời sương mù dầy đặc.  Thời tiết làm tâm hồn bâng khuâng hơn.  Tầm nhìn mờ đục trước mặt như có một nỗi niềm nào dàn trải.  Thì lúc ấy, nghe trên đài phát thang, tin nhà báo Phạm Huấn vừa từ trần.  Thựa ra, Phạm Huấn làm rất nhiều công việc: viết văn, làm báo, làm lính, làm phóng viên chiến trường và cả làm diễn viên điện ảnh nữa.  Tôi được nghe ông chú tôi là bạn khá thân của anh Phạm Huấn từ nhiều chục năm nay kể về những chi tiết của cuộc đời anh và riêng trong suy nghĩ tôi anh là một mẫu người đặc biệt.  Thế mà, cuộc đời có nhiều cái bất ngờ không hiểu nổi.  Ông chú tôi nói một người mạnh khỏe đẹp trai như Phạm Huấn mà cuối đời bị căn bệnh quái ác khiến ký ức trở thành quên lãng muôn năm.

Tôi nhớ có lần mình đã viết về cuốn sách Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 đã dẫn nhập bằng thơ Nguyễn Bắc Sơn và có trích đoạn những câu đối đáp giữa một ông tướng tư lệnh Vùng và người lính binh nhì trong chiến trận ở phi trường Phụng Dực.  Nhà văn Phạm Huấn có lần điện thoại nói chuyện với tôi tỏ ý thích những chi tiết ấy.  Tôi có nói rằng em chưa gặp anh nhưng biết về anh rất nhiều.  Ông hỏi tại sao và tôi có nói tên người chú mà cũng là người bạn của ông.  Ông cười và tâm sự rằng trong đời ông mê nhất vẫn là vai trò phóng viên chiến trường.  Và, ông đã làm được công việc mà ông ưa thích ấy.  Vì hoàn cảnh, nhiều khi ông đã phải làm chứng nhân cho những biến cố lịch sử ngặt nghèo và từ đó thấu hiểu nhiều hơn thân phận của nước nhược tiểu.  Không ai là không yêu nước nhưng có những bó buộc làm quyết định cá nhân nhiều khi là những điều mà thật tình trong thâm tâm những người trong cuộc không muốn...

Bây giờ, tất cả  những điều ấy anh đã quên từ trước.  Trong hoàn cảnh bỏ nước lưu vong, ai mà chẳng có nỗi niềm.  Chắc hành trang ra đi của anh sẽ nhẹ tênh: Chuyến song loan đưa anh về thiên cổ đã một lần chuyển bánh.  Vĩnh biệt người phóng viên chiến trường Phạm Huấn.  Có phải anh sẽ trở về.  Về Hà Nội như anh đã trở về ngày 18 tháng 2 năm 1973, cách nay hơn ba chục năm.  Hay là trở về Pleiku, về Ban Mê Thuột... những chiến địa xưa, nơi “Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, mặt chinh phu trăng dõi dõi soi...”