ĐƯỜNG VỀ XA XĂM
VÀ NGUYỄN BÁ CHUNG
NGUYỄN MẠNH TRINH
Chiến tranh Việt Nam đã tàn từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.Nhưng tới nay, vết thương hình như chưa liền miệng.Vẫn còn những hố sâu, từ đời sống thực tế đến đời sống văn chương. Từ những vị trí khác nhau,chiến tranh vừa qua được nhìn ngắm với những cảm quan khác nhau từ những đối cực rõ nét.
Những người chiến thắng ,dù có người đã nhìn lại cuộc chiến tranh như Bảo Ninh, Dương Thu Hương,… nhưng phần đông vẫn còn cái ý tưởng là đã tham dự một cuộc chống xâm lăng để gìn giữ độc lập cho đất nước. Văn học miền Nam thì bị bức tử từ những người miền Bắc. Những người miền Nam, một số di tản ra nước ngoài nhưng phần đông thì bị vào trại tù với thân phận của kẻ thất trận. Sau những biến cố chính trị ngột ngạt, đời sống bị sa sút đến cùng cực, một số người bỏ xứ ra đi, lưu lạc xứ người. Dần dần , lên tới cả hai triệu người Việt ở tất cả mọi nơi trên thế giới.Từ những đợt di tản, vượt biên bằng đường bộ , đường thủy, đến những người ở Đông Au,…Những nỗi niềm tuy có khác biệt nhau nhưng yếu tính lưu vong vẫn là một nét chung mang cho tất cả những người Việt ở hải ngoại.
Những nét đặc thù cho một nền văn học đã hiện hữu. Ở Hoa Kỳ, Canada, ÚC Châu, Đông Âu, hay Tây Â,…báo chí Việt ngữ đã phát triển đến mức không ngờ. Phần đông đều là những ấn phẩm đẹp về hình thức và xúc tích về nội dung. Những tạp chí văn học có giá trị là nơi để văn chương phát triển. Những tuần báo, nhật báo, ngoài vị trí truyền thông còn là chỗ biểu hiện cho nỗi niềm của những người đối kháng không chấp nhận chế độ đang cai trị trong nước.Những tác phẩm được trình làng là những đóng góp của từng cá nhân nhưng tạo được thành quả cho sự phát triển văn học. Qua nhiều thời kỳ, có lúc sôi nổi có lúc trầm lặng , nói chung những người Việt ở hải ngoại đã có sẵn căn bản cho một nền văn học đúng nghĩa.
Chiến tranh, dù đã qua một thời gian dài nhưng vẫn để lại nhiều âm hưởng trong thời đại hiện nay. Những tâm sự chẳng biết ngỏ cùng ai nay mượn bút mực để bày tỏ. Chiến địa ngày xưa,thuở trăng treo vó ngựa sao có lúc vẫn còn trong trí nhớ. Những địa danh một thời chẳng thể nào quên. Những người bạn đồng đội, giờ này ai còn ai mất? Những mênh mang tâm sự.Những u uẩn thế thời. Những mang nặng trên vai của những người thua trận. Hình như, bút mực đã sẵn sàng cho những giàn trải văn chương…
Có nhiều góc cạnh để nhìn ngắm nền văn học ở hải ngoại cũng như hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975. Những người Cộng sản không bao giờ chấp nhận sự thực và luôn luôn dùng mọi cách để bôi xóa đi . Trong trường học , những tác giả từ tiền chiến cũng không được giảng dạy trong chương trình giáo dục nên học sinh đã quên đi cả một thời văn học đầy khai phá thì với văn học miền Nam làm sao các lớp trẻ có hiểu biết được . Thay vào đó , học sinh được học là trong thời kỳ ấy ở miển Nam có những tên nhà văn nhà thơ ở trong bưng trong ruộng như Trần Bạch Đằng , Bảo Định Giang , Anh Đức , Giang Nam,..Cũng như khi viết về văn học hải ngoại , luôn luôn có giọng bỉ thử và luôn vẽ ra những nét u tối bi quan . Dù trước hay sau đổi mới , hình thức có khác đi nhưng nội dung không đổi. Gần đây nhất , khi có phong trào in lại sách cũ , khi in lại bốn tác phẩm của nhà văn Dương Nghiễm Mậu thì bị phê phán tơi bời . Mà người nặng lời nhất lại là Vũ Hạnh , một người a dua nhưng lại sắt máu hơn cả những tay Cộng sản đầu sỏ . Một người đã sống ở chế độ VNCH , nhưng nằm vùng , đã bị bắt nhưng được can thiệp để thả , bây giờ là cái loa của những kẻ vẫn còn mang cái chiêu bài đã hết thời hấp dẫn.. Những cuốn được in lại như Đôi Mắt Trên Trời , Cũng Đành, Nhan Sắc , Tiếng Sáo Người Em Ut , của Dương nghiễm Mậu bị gán cho đủ thứ tội , nào là viết về chủ tịch Hồ Chí minh với lời lẽ khiêu khích bịa đặt trắng trợn , nào xuyên tạc lịch sử , nào là đào sâu vào bản chất của cuộc hiện sinh con người theo kiểu bất chấp lịch sử và quan hệ xã hội , nào thú vật hóa loài người .. Đó có phải là một phương cách kỳ thị của một chính sách vẫn còn phân biệt địch thù , và không có một chút nào hòa giải hòa hợp hết…
Ở hải ngoại, có những người vẫn còn mang cái tư tưởng phản chiến xưa kia nên có những nhận thức sai lạc và có những nhận xét không chính xác . Có thể , họ là những người may mắn , được đi du học và không phải bị ảnh hưởng của chiến tranh như những lớp trai trẻ cùng thời. Mang cái tâm không thẳng thắn , họ nhìn ngắm những sự kiện rồi giải thích theo ý riêng mình.
Viết về văn học Việt Nam, trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt , có lẽ cần thiết cái tâm trong sáng. Nếu không , sẽ có những bất cập thiếu xót to lớn . Và , những hậu quả ấy sẽ ảnh hưởng đến đời sau . Ở trong nước , một cô giáo tốt nghiệp đại học trong một cuộc đố vui kiến thức đã không biết đến những nhà văn của Tự Lực Văn Đoàn khi được hỏi khi mà học sinh đệ nhất cấp của miền Nam cũng dễ dàng biết đến . Thử tưởng tượng, với sự bóp méo thiên lệch, thì sai sót ấy sẽ tác hại biết bao nhiêu?
Gần đây , có một bài viết của tác giả Nguyễn Bá Chung viết về văn học Việt Nam đã gây ra nhiều phản ứng . Đó là bài viết “ The Long Road Home: Exile , Self -Recognition , and Reconstruction “ (Con đường xa xăm: lưu vong, tự xét mình và tái cấu trúc) đăng trên tạp chí Manoa.
Tôi không biết nhiều về tác giả Nguyễn Bá Chung. Thỉnh thoảng tôi có đọc bài viết của ông đăng rải rác và tôi cũng chẳng để ý nhiều. Đại khái , tôi biết ông xuất thân từ miền Nam , được đi du học và ở ngoại quốc đến bây giờ . Có lần , tôi đọc một bài viết bằng Anh ngữ của ông giới thiệu tập thơ của Nguyễn Duy trong đó có kể một số tên tuổi thi sĩ Việt Nam nhưng lại thiếu những tên tuổi của văn học miền Nam và văn học hải ngoại trong khi thừa những tên tuổi thi sĩ “ luc lục thường tài “ khác. Cái sơ sót ấy không phải vô tình mà là một sự cố ý rõ ràng không phủ nhận được. Và cũng chính Nguyễn Bá Chung , một người làm thơ đã mô tả một thế hệ di tản thật nhiều ác ý . Bài thơ nhan đề Di Tản:
“Là mảnh vụn của sỏi đá
là giọt nước của ao tù
là tia nắng cuối cùng mong manh
là viên đạn lép
cuối lòng súng rỉ
là ngôn ngữ bất lực
của tháng ngày bất lực
là vết bầm cuối cùng
của cuộc nội thương
là vết rêu của sỏi đá
là hơi sương trên ao tù
là tia nắng cuối đời mong manh
là viên đạn lép
không bao giờ bắn nữa
là ngôn ngữ khởi đầu
khi tiếng bom chấm dứt
là những gì đọng lại
sau cơn động đất cuối mùa.”
Đọc bài thơ ấy , ai có thể nghi rằng tác giả của nó se có cái tâm thẳng thắn khi nhận định về nền văn chương khởi từ những người di tản ? Thành ra , viết một bài như” The Long Road Home: Exile , Self- Recognition, and Reconstruction “ cũng là hệ quả tất yếu của suy tư ấy , tính tình ấy. ..
Mang những lời nhạc của Trịnh Công Sơn mở đầu bài viết của mình , Nguyễn B á Chung muốn mang cái cảm xúc của một thời để nói về hiện trạng bây giờ . Bài viết gồm nhiều tiểu đoạn: A Call of Conscience, A Class of worlds and Worldviews, Cultural Discontinuities, Self-Recognition and Reconstruction, Cultural Convergences. Ơ trong trình tự của bài viết, Nguyễn Bá Chung muốn phác họa lại tình cảnh của những người cầm bút Việt nam trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử . Với suy tư của riêng mình , ông đã đem những câu nói hoặc trích đoạn của các nhà văn như Mai Thảo , Võ Phiến để hậu thuẫn cho luận cứ .
Nguyễn Bá Chung cho rằng tình trạng hận thù giữa người Việt Nam với nhau vẫn còn , giữa người miền Bắc và người miền Nam , giữa người trong nước và ở hải ngoại. Thực tế, trong đại đa số dân chúng, không hề có sự hận thù lẫn nhau. Người hải ngoại vẫn gửi tiền về giúp đỡ người trong nước và người miền Bắc hay miền Nam không hề thù hận nhau vì họ bị chịu cùng chung sự cai trị khắc nghiệt và tàn bạo của chính quyền của đảng Cộng sản. Nếu có thù hận , thì chỉ là giữa người gây tội ác và nạn nhân. Những người bị cướp nhà cướp đất , bị đẩy vào những cuộc ra đi mà mạng sống mong manh trên biển cả, bị gia đình tan nát thì hận thù ấy chính đáng chứ không phải là cố chấp nuôi hận thù . Người miền Nam bị chiếm đất chiếm ruộng biểu tình ở Cần Thơ hay Sài gòn thì cũng giống như người dân miền Bắc biểu tình ởThái Bình , ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, Hà nội .
Đành rằng , văn chương không phù hợp với thù hận , và không chấp nhận thiên kiến. Nhưng , nếu cứ kêu gọi hòa giải hòa hợp giữa kẻ chủ động gây ra tội ác dùng quyền lực của mình thì có khác nào tạo cái hòa hợp giữa con cáo và chú gà . Nếu ở trong nanh vuốt thì ăn tươi nuốt sống ngay nhưng khi chú gà được ở trong lồng , được bảo vệ thì con cáo lân la kết hòa để chờ cơ hội hạ thủ . Chính quyền trong nước sao không hòa giải hòa hợp với những người cầm bút còn ở trong nước và còn bị kiềm chế mà cứ đòi hòa giải hòa hợp với những người ở hải ngoại. Có phải vì trong mưu đồ hậu ý nào đó chứ không phải thiện tâm muốn đoàn kết dân tộc để xây dựng đất nước.
Nhận xét về cuộc chiến tranh đã qua , Nguyễn Bá Chung có những nhận xét khá kỳ lạ. Nói về những người viết miền Nam mà ông cho rằng đã rút vào thành phố đẩ có dù che an toàn và có thể quay mặt được với cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra ở nông thôn. Họ không thể tán đồng với chính phủ miền Nam trong cuộc chiến và cũng không dám dấn thân vào bưng theo phe Cộng Sản nên đã có thái độ mà ông gọi là “ nonconformity and doubt”(bất định hướng và hoài nghi).
Điều ấy có chính xác không ? Trước hết , không có một ai trai trẻ ở miền Nam tránh được nhiệm vụ quân sự ngoài những người đặc biệt được ấn định bởi luật pháp . Hầu như đa số phải nhập ngũ và tham dự cuộc chiến . Chỉ có một số ít trốn lính bất phục tòng hoặc những người được xuất ngoại (có thể vì học giỏi hoặc con ông cháu cha) may mắn như trường hợp ông Nguyễn Bá Chung. Những người cầm bút cũng giống như mọi người nên không có chuyện ở trong thành phố để trốn tránh cuộc chiến . Văn học miền Nam thì đa dạng, không phải chỉ có chiến tranh và kêu gọi chém giết như văn học miền Bắc nên có tình trạng nhiều đề tài xen kẽ nhau , tình yêu , chiến tranh , và cả chống chiến tranh, triết lý hiện sinh , hoài nghi , vô chính phủ…
Còn tính chất cuộc chiến , thì có lẽ cả thế giới đã bị lừa gạt bởi những chiêu bài che dấu ý định bành trướng và xâm lược của miền Bắc . Có sống với Cộng sản , mới hiểu được những mánh khóe thủ đoạn tuyên truyền của một chế độ độc tài toàn trị.
Nguyễn Khắc Toàn , một người đã rời ghế nhà trường vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu đã viết:
“.. Mô hình chế độ chính trị Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa trước đây, khi ở miền Băc 1tôi đã được tuyên truyền rằng đó là một loại hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu mới do Đế quốc Mỹ dựng lên và làm bàn đạp để tiến công miến Bắc và phe XHCN do Liên Xô và Trung Quốc là những nước đứng đầu. Và các cơ quan tuyên truyền của miền Bắc còn nói về kinh tế , miền Nam Việt Nam là thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các nước phương Tây. Đây cũng là nơi Mỹ và các đế quốc nước ngoài vơ vét tài nguyên bóc lột sưc 1lao động rẻ mạt của nhân dân Về văn hóa , xã hội , giáo dục .. thì mảnh đất màu mỡ ở miềnNam Việt Nam là nơi để gieo mầm nô dịch của đế quốc , ngoại bang nảy nở phát triển . Trên báo đài phát thanh sách vở giao 1khoa dạy trong các trường học ở miền Bắc thì đầy dẫy những tuyên truyền về một nhà tù lớn , một trại tập trung khổng lồ. Ở nông thôn htì nông dân bị kềm kẹp trong ấp chiến lược với lớp lớp hàng hàng rào dây thép gai bao quanh, với nhiều chòi canh có lính canh với sáng đạn tối tân canh gác đêm ngày..
Nhưng trên thực tế , khi tôi đã tiếp xúc với rất nhiều người bà con gia đình hai bên nội ngoại rời quê hương miền Bắc vào miền Nam từ sau hiệp định Giơ-ne –vơ 1954. Q ua việc đó , tôi đã có nhận thưc 1rất khác về đời sống xã hội , kinh tế , và chế độ chính trị ở miềnNam 1975. Đó là một xã hội mà cuộc sống nhân dân được hưởng nhiều cởi mở và tự do. Người dân từ nông thôn đến thành thị được sống tự do dân chủ , được hưởng rất nhiều quyền của con người hơn như : có tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do biểu tình- mít ting hội họp, tự do sinh hoạt đảng phái chính trị, tự do xuất dương và cư trú trong nước, tự do ứng cử và bầu cử.
.. Bi kịch lớn của dân tộc ta , tổ quốc ta là ở chỗ cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn tạo ra núi xương sông máu của nhân dân cả nước nhằm hủy diệt một chế độ đa đảng dân chủ một nền kinh tế thị trường đã từng tồn tại ở miền nam trước năm 1975 mà giờ đây chúng ta lại phải đang đấu tranh để được đi lại đúng con đường này.”
Không biết ông Nguyễn bá Chung có đọc bài viết của tác giả Nguyễn Khắc Toàn không ? và không hiểu ông có thay đổi những luận cứ của mình ?
Hình như Nguyễn Bá Chung có thừa nhận tình trạng tụt hậu của đất nước sau năm 1975 . Nhưng ông lại có một nhận xét là chỉ có những người ở thành thị quen ăn sung mặc sướng mới bị ảnh hưởng còn những người dân ở nông thôn quen với bom đạn nên bây giờ hòa bình là vui sướng rồi và bằng lòng với cuộc sống mới . Nguyễn Bá Chung viết:
"After the war , in the period from 1975 to 1986, when the country went into steep economic decline, it was a hellish fall to most people in the South but particularly for those who lived in the city. In contrast , for those who had survived constant hunger and want in the jungle during the war, such subsistence living was preferable to what they had endured. The resulting clash was therefore not simply of ideologies, but of two altogether different worlds in which the very meaning of language was in dispute. In one world, to be abble to live in peace to have food to eat( regardless of how simple or meager) and clothes to wear and to rest one’s head in an above ground shelter were achievements and were among the sweet freedoms enjoyed by those who had survived. In the other wirld. Those who had lived in relative comfort were now preocupied with defeat and the loss of those individual freedoms that had come with life in a urban society..”
Tam dịch (sau chiến tranh, trong thời kỳ 1975-1986, khi kinh tế đất nước bị suy đồi thê thảm, một sự tuột dốc nặng nề cho đa số dân chúng miền Nam, mà đáng kể là những cư dân ở thành phố. Ngược lại, với những người luôn luôn trải qua đói khát và ham muốn ở trong rừng khi còn cuộc chiến, thì cuộc sống dù thiếu thốn nhưng còn dễ chịu hơn những ngày họ đã chịu đựng. Kết quả đối nghịch không chỉ giản dị thuần lý, nhưng còn là hai thế giới sinh sống khác biệt nhau mà ngay chính cả ngôn ngữ của suy nghĩ cũng xa lạ nhau . Ở một thế giới, được sống trong an bình , có thực phẩm để ăn ( dù thanh đạm hoặc không ngon miệng) có quần áo để mặc và được nghỉ ngơi trên mặt đất là một tiến triển rồi và là tự do ngọt ngào hưởng thụ từ những người còn sống sót. Ở một thế giới khác , những người đã quen sống tiện nghi, nay lại bị bao vây bởi sự thua trận và đánh mất tự do cá nhân trong cuộc sống từ một xã hội tân tiến..)
Không hiểu ông Nguyễn Bá Chung có phải “ người đi trên mây” không khi viết như thế? Sống ở Việt Nam thời kỳ 1975-1986 , mới hiểu được sự công phẫn bất bình của người dân như thế nào. Càng có gốc gác cách mạng , càng chửi bới dự tợn . Những bà già từng đào hầm che dấu cán bộ đảng, từng tiếp tế cho chiến khu , từng là gia đình liệt sỹ, đã có phản ứng mạnh mẽ hơn cả dân chúng thành phố nữa. Năm 1980 , tôi về xã Tiệm Tôm huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre để tính vượt biên bằng cửa Bình Đại. Ơ đây , tôi đã thấy những dân cách mạng thứ thiệt phản ứng ra sao trước những cảnh bất công tham nhũng, dân tình đói nghèo , ngăn sông cấm chợ , thuế má nặng nề , cán bộ ức hiếp dân chúng. Những bà má chiến sĩ , đã góp công góp của cho chế độ để thành danh ‘Quê Hương Đồng Khởi “ nay chửi rủa tàn tệ , gọi những ủy ban hành chính xã , huyện này là quỷ nọ , quỷ kia( người địa phương đọc hai chữ ủy và quỷ giống nhau nên huyện ủy , xã ủy là xã quỷ , huyện quỷ ) . Mà đám cán bộ thì trước kia thường được giúp đỡ nên không dám phản ứng gì…
Và người vượt biển đâu phải chỉ riêng người thành phố , mà người ở thôn quê cũng bị đẩy vào hoàn cảnh phải đi cũng không ít. Nếu bằng lòng , quen với khổ cực , thì lao đầu vào biển cả đem sinh mạng của mình giỡn đùa với nguy hiểm làm chi ?
Đọc “ The Long Road Home: Exile, Self- Recognition, and Reconstruction” của Nguyễn Bá Chung , tôi cũng thấy tác giả có đường về xa xăm thực! Sẽ diệu vợi biết bao cho đường về cội nguồn dân tộc nếu vẫn còn giữ những thiên kiến của thời phản chiến khi mà sự chống đối chiến tranh được coi là một mốt thời thượng. Thực tế của Việt nam đầu thế kỷ 21 đã không còn thích hợp với những lý luận một chiều nhằm phục vụ cho những âm mưu của bạo quyền muốn bôi xóa sự thực và sửa đổi lịch sử. Tôi khâm phục biết là bao nhiêu những người như nhà văn Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký trung thực phê phán chế độ dù trước đó ông tỏ ra rất có cảm tình với những người cộng sản mà ông gọi là “những người kháng chiến “.
Đường về xa xăm . Ôi sao buồn như một điệp khúc của ca từ Trịnh Công Sơn , của những suy tư lạc lõng ,của một cuộc chiến vô nghĩa và vô lý…