ĐI VÀO CÕI THƠ
THANH TRÍ CAO
THÁI TÚ HẠP
Từ lâu, có nhiều ý tưởng nhận xét phiến diện của một số nhà trí thức học giả phương tây về Phật Học và cho rằng Phật Học như một biểu tượng của nền triết học đông phương. Lý luận như thế họ chỉ nhìn một phần nhỏ của cánh rừng bao la về giáo lý Phật Giáo.Triết gia Nietzche đã nói: “Triết lý: đó là đời sống trong băng lạnh và trong núi thẳm hoang vu”.Triết học chỉ dựa trên căn bản của sự yêu chuộng trí tuệ hay thúc đẩy lòng ham thích đi tìm sự thăng hoa của trí tuệ một cách đơn thuần. Phật Học cũng có những tư tưởng sâu sắc như thế nhưng còn vượt xa hơn những suy nghiệm, những giải thích căn cứ trên những lý luận mơ hồ của siêu hình học, của những nhận định khởi phát từ chủ quan. Nếu hiểu triết học là những hình thành nghiên cứu, học hỏi chiêm nghiệm những căn bản từ thế gian, trong đó chúng ta đang sống thì Phật Học cũng có những tương quan với triết học nhưng Phật Học bao quát thâm viễn uyên áo hơn và không xa rời thực tế và khoa học hiện đại.
Triết học cổ xúy lý luận và phân tách nhưng tuyệt nhiên không hướng đến phần thực hành. Trong khi Phật Học khởi sắc không những chú trọng đến sự khai mở trí tuệ mà còn rèn luyện Tâm Từ Bi bằng những phương thức thực hành cụ thể đưa đến Giác Ngộ, đạt tới Chân Như.Qua những sử liệu nghiên cứu đã chứng minh Đạo Phật là Đạo Từ Bi Giác Ngộ, là con đường dẫn đến Không Tánh Tự Chứng viên mãn và siêu việt. Đạo Phật không xuất thế mà cũng không nhập thế: Đạo Phật vẫn liên tục chuyển thế trong từng giây phút trôi qua trên khắp mặt địa cầu. Ngoài phạm trù ý nghĩa là một tôn giáo nhưng Đạo Phật còn thể hiện những sắc thái triết học tối thượng, một di sản tinh thần vô giá của nhân loại.Đối với Dân Tộc Việt Nam, tư tưởng và triết lý Phật Giáo đã thấm nhuần trong tận tâm hồn từ hàng nghìn năm trước. Tất cả văn minh, văn hóa Việt Nam là văn minh, văn hóa Phật Giáo.Việt Nam trong quá khứ, lịch sử đã từng ghi nhận các nhà lãnh đạo Nhân Đức đời Lý Trần đã thẩm thấu chân lý uyên bác vi diệu của Đạo Từ Bi, Nhân Bản đã đem lại cho Dân Tộc an hưởng lạc thú thanh bình hàng trăm năm thịnh trị. Văn Học Việt Nam cũng đã ảnh hưởng sâu rộng Giáo Lý Phật Giáo qua tác phẩm của các thiền sư Khuông Việt, Vạn Hạnh, Viên Chiêu, Huệ Sinh, Ngộ Ấn, Mãn Giác, Không Lộ, Hương Hải, Đạo Hạnh và Chân Nguyên. Điển hình nhất qua tác phẩm lừng lẫy như Đoạn Trường Tân Thanh, Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh, Thanh Hiên Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Bắc Hành Tạp Lục của thi hào Nguyễn Du...Nói chung ở trong nội dung đa số những tác phẩm văn học nghệ thuật của các văn nhân thi sĩ Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ qua và đã thăng hoa khởi sắc, phong phú thêm cho nền văn học nghệ thuật nước nhà.
Chúng tôi không dám mơ ước nói chuyện về những thiên hà kinh điển Phật Giáo trong vũ trụ qua những tác phẩm văn học Việt Nam của các bậc tiền bối trong suốt những dòng lịch sử, vì sự hiểu biết quá khiêm nhượng và thô thiển của chúng tôi. Điều vinh dự lớn lao và cụ thể hôm nay là xin trang trọng giới thiệu đến với tất cả quý vị một nhà nghệ sĩ tài ba và một tu sĩ đức hạnh rất gần gũi và dầy thân kính Thanh Trí Cao với thi phẩm vừa mới phát hành khắp nơi: Khoác Áo Chân Không (Cánh Cửa Mở Vào Nghệ Thuật Thăng Hoa Giữa Đạo và Đời). Khoác Áo Chân Không là tác phẩm thứ năm sau Trăng Ngủ Trong Mây - Trên Dòng Tử Sinh - Hương Vị Chân Tâm và Hái Hoa Tuyết Đông đã xuất bản từ nhiều năm qua. Khoác Áo Chân Không như tác giả bày tỏ: Thông thường quan niệm của chúng ta, con người mới mặc áo còn vũ trụ thì không. Thi nhân khoác lên chân không chiếc áo màu xanh da trời. Thi nhân đùa cợt với không gian bằng những ngôn ngữ thi ca ẩn mật phiêu bồng... Mây ngàn ơi! Thao thức để làm gì? Huyền thoại, hư không, hư danh - trường mộng kia ơi! Cứu cánh nơi nào? Có và không bất phân ánh mắt nào quen thuộc, đại dương ơi! Đối thoại hào hùng.Đứng trên bình diện văn học nghệ thuật bản sắc thi ca và tình nghi quyện vào nhau kết thành đài sen hương sắc. Vượt thời gian và không gian, tôi âm thầm nhặt từng mảnh vỡ Chân Không kết thành vòng thơ ý vị xin cống hiến cho người cho đời trong cõi tạm dung này.
Khoác áo chân không
Nhẹ nhàng trong lòng
Tâm hồn tuyệt đẹp
Như một dòng sông
Khoác áo chân không
Ta đi một vòng
Văn minh thế giới
Học hỏi quán thông
Khoác áo chân không
Tiễn Thu vào Đông
Chim muông chúc tụng
Tình người lưu vong...
Bài thơ dài nhất trong hơn bảy mươi bài mang những tư tường sâu sắc về đạo về đời về hoài bão của người nghệ sĩ đi tìm Chân Thiện Mỹ trong núi rừng mênh mông của thiên hạ và lúc nào cũng thong dong như mây trời.
...Phải chính thế! Bước chân thầm lặng
Mãi đi tìm nắm bắt thời gian
Anh đắc ý vàng Thu hoang dại
Xin cám ơn đồi núi mây ngàn
Ngày trở lại mang theo tác phẩm
Tráng sĩ hề viễn mộng bình sinh
Ai khai phóng con đường nghệ thuật
Xuân hài hòa nét đẹp trung trinh
(Nghệ Thuật Sống)
Nếu khai triển Chân Không qua lăng kính triết học Phật Giáo khi bố thí với tinh thần Tam luận không tịch thì việc bố thí đó sẽ trở thành nghiệp thiện mang tính cách Chân Không Diệu Hữu và nêu cao tinh thần Bát Nhã hy sinh thân mình cứu giúp người khác chia sẻ nỗi niềm đau thương của Dân Tộc, của Đất Nước.Sống cuộc đời hòa ái an vui, đả phá ngã chấp, ngã dục làm phương tiện để thể hiện thế giới Chân Không. Tất cả những ý nghĩa đó chúng ta không những tìm thấy trong nội dung những tác phẩm mà nhà thơ, tu sĩ Thanh Trí Cao đã hình thành ngay trong đời sống, đã thực hiện một cách cụ thể qua những hành động tâm linh, giúp đói cho những người nghèo khổ và thao thức đến những bậc cao tăng những nhà thức giả uyên bác trong Phật Giáo đang bị bức tử nơi quê nhà. Chúng ta có thể đan cử bài thơ Thời Tiết Vào Đông riêng tặng đến nhà thơ hào khí Tuệ Sỹ:
Lữ khách đến nắng chiều vụn vỡ
Bóng tà dương le lói đôi bờ
Sóng biển gọi yêu thương đồng loại
Chuyện hôm qua ảo ảnh phai mờ
Bàn tay nhỏ níu thời gian lại
Quyền năng kia, tàng ẩn sóng ngầm
Bao hưng phế kinh hoàng khiếp đảm
Người phát ngôn bằng cả hùng tâm
Trời trở gió lùa mây qua phố
Tiếng kinh thiếu thời tiết vào Đông
Hoa vẫn nở như niềm hy vọng
Người bước đi dâng cả tấm lòng
Nỗi mất mát lặng căm như tuyết
Thôi cũng đành lưu luyến dòng sông
Chút hãnh diện Từ Bi bất diệt
Đôi vai gầy khoác áo Chân Không
Như đã vẽ lối về thầm lặng
Thi nhân ơi! Thơ đẹp lạ thường
Xin hiến tặng những gì người có
Để bảo tồn nét đẹp văn chương
Cái đạt của Thiền là nét đẹp hồn nhiên trong cuộc sống, bước vào đời với cái tâm vô phân biệt đầy hỷ lạc từ ái, lúc nào cũng mang đến niềm vui cho người khác, kể cả kẻ thù đang manh tâm ám hại. Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật đã dạy: Không có chiến công nào oanh liệt, chỉ có tự thắng mình là chiến công hiển hách nhất.Thi sĩ là một tu sĩ Phật Giáo gần suốt cả một đời đọc hàng vạn kinh điển thâm viễn uyên bác thấm nhuần Giáo Pháp của Đức Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng khi làm thơ qua những thi phẩm mà chúng tôi vinh hạnh đọc được trong thời gian qua, điểm đặc biệt ghi nhận nhà thơ Thanh Trí Cao rất ít dùng thuật ngữ của Thiền Học nói riêng và Phật Giáo nói chung để diễn tả tư tưởng tình cảm tâm lý của tác giả. Nhưng không vì thế mà người đọc không cảm nhận qua những tác phẩm của thi sĩ Thanh Trí Cao tỏa ngát hương thiền một cách nghệ thuật tài tình. Một ưu điểm đặc biệt khác nữa qua thế giới thi ca của nhà thơ Thanh Trí Cao chúng ta khám phá những tình cảm trân quý cao đẹp, đó là hình ảnh người Mẹ. Thật vĩ đại và kỳ diệu khi dùng ngôn ngữ để ngợi ca Tình Mẹ. Nhà văn Anatole France nổi tiếng của Pháp đã nói:
“Trong tất cả những kỳ quan trên thế gian không có kỳ quan nào tuyệt vời và vĩ đại bằng trái tim của Mẹ...”
Những tâm sự u hoài ray rứt xót xa khi được tin Mẹ đã vĩnh biệt ra đi ở quê nhà:
Tôi dừng lại lắng sâu ký ức
Để hạt buồn rơi nhẹ chung quanh
Tình mẫu tử thiêng liêng cao cả
Thu nhuộm vàng những hạt mơ xanh
Ôi! Trái đất nơi này xa quá
Xa quê hương đành mất lối về
Làm lữ khách mà lòng nhung nhớ
Đời cưu mang một khối tình quê
Mẹ tôi mất thật rồi sao nhỉ
Tiếng kinh cầu gõ nhịp phân ly
Tuổi của mẹ đời so thế hỷ
Kiếp vô thường chẳng có nghĩa chi
Gởi theo gió lời kinh tiếng kệ
Nén hương trầm thơm dịu chân không
Lạy Chư Phạt! Soi đường chỉ lối
Để người đi nhẹ bước thong dong
Lạy Chư Phật! Soi đường chỉ lối
Cho người đi đến tận bến bờ
Lời tiễn Mẹ nửa vòng trái đất
Con ngồi đây viết những dòng thơ...
Ngoài cái tình mẫu tử thiêng liêng cao quý mà thi sĩ ôm ấp mãi trong tâm thức cho dù tu sĩ vẫn hiểu “vạn pháp hữu vi đều là vô thường” huống chi là trái tim của Mẹ. Hiểu là đã liễu ngộ Chân Như nên nhà thơ nguyện cầu cho Mẹ được siêu thoát về cõi Niết Bàn. Tình quê đối với nhà thơ Thanh Trí Cao cũng thắm thiết không kém như Tình Mẹ. Niềm nhớ nhung vực dậy muôn ngàn tinh tú đau thương nơi tiềm thức tịch lặng, thao thức mãi trong lòng về nước non nghìn dặm cách xa, của nhà thơ Thanh Trí Cao cũng không khác nỗi niềm thương nhớ cố quận của thi sĩ Giả Đảo nhà Đường khi ở trọ mười năm trên đất khách Tinh Châu mà tâm hồn lúc nào cũng ôm nỗi sầu viễn mộng lưu vong, da diết nhớ đến quê nhà đang lầm than khổ đau vì thù hận:
...Khách xá Tinh Châu dĩ thập sương
Qui tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô đoan cánh độ Tang Càn thủy
Khước vọng Tinh Châu thị cố hương
Mười năm quán trọ khách Tinh Châu
Thương nhớ Hàm Dương canh cánh sầu
Ai tưởng sông Tang nay lại vượt
Tinh Châu ngoảnh lại cố hương đâu?
(Độ Tang Càn - Đào Hữu Dương dịch)
Mỗi người lữ khách trong chúng ta, đều mơ ước thắp lên một giấc mơ, nhưng trong tất cả những giấc mơ đó có một mẫu số chung là cầu nguyện cho quê hương Việt Nam sớm được thanh bình tự do thực sự để chúng ta nói lên tiếng nói chân thật của lòng mình mà không có ai kiểm soát, như cánh chim tung cánh giữa trời xanh đầy hy vọng.
Đây chứng tích bên dòng lịch sử
Người choàng vai vũ trụ - ngân hà
Chú oanh hót bên bờ đại mộng
Tình cỏ - cây tấu khúc thiền ca
Giáo nghĩa ấy vun trồng sự sống
Lời gọi mời chuyển hóa dung thông
Quay trở lại khung trời đổi mới
Nền văn minh huyền diệu sắc không...
... Khái niệm ấy thay hình đổi dạng
Lời hịch nào thức tỉnh quyền năng
Nếu chẳng phải tinh hoa nhân loại
Có nghĩa gì yếu điểm cách ngăn
Ôi! Mặc khách – tao nhân thời thượng
Đời đủ quen nét đẹp lạnh lùng
Cứ khai phóng truyền thừa nhân bản
Bước chân thiền tự tại ung dung
(Thân Phận Thầy Tu)
Trong mỗi sát na của đời sống đang triền miên xảy ra bao nhiêu đảo điên của Tâm vọng ngã. Bao nhiêu Luân Hồi sinh diệt của chúng sanh trong cõi Ta Bà khổ ải. Thể xác như căn nhà cõi tạm. Mỗi con người chẳng khác nào như một sinh vật bé nhỏ hiện hữu trong không gian hành tinh này, chỉ trong một thời gian nào đó rồi lại mất hút trong vũ trụ bao la, để chuyển hóa theo nghiệp trùng trùng duyên khởi. Thấu triệt được chân lý, trong mỗi phút giây hiện hữu, chính ta hãy đột nhập vào tận cùng sào huyệt Vô Minh để khai hóa Tuệ Giác - Tâm Chánh Niệm tạo sự an lạc hạnh phúc trong đời sống thường hằng, tự giác giác tha.
...Nét huyền diệu của rừng của biển
Như tấm lòng đến với tha nhân
Chân dung đó thanh cao âm diệu
Thương yêu Người tâm nguyện hiến dâng
Tôi tin tưởng ngày mai có thật
Một lộ trình hoa nở xinh xinh
Ôi! Đẹp quá hoa Tâm thơm ngát
Tiếng chim muông chào đón bình minh...
(Âm Điệu Xuân)
Với thế gian, nhà thơ không phải là người nghệ sĩ mơ mộng viễn vông, mà phải là người sống ngay giữa lòng cuộc đời đau khổ với một chiều sâu tâm linh, chuyển hóa mọi hận thù trở nên một mùa xuân từ ái, thoát ly bản ngã nhỏ hẹp để hiến dâng niềm vui thanh khiết đến với trái tim mọi người một cách cụ thể?Ý tưởng đó chúng ta không những đã bắt gặp trong những dòng thơ sâu sắc hiện thực của nhà nghệ sĩ và tu sĩ Thanh Trí Cao mà ngay chính trong cái nhìn về nhân sinh quan, về sự biến hóa đổi thay Vô Thường qua mau trong cuộc sống đã cấu tạo nên những chất liệu hiếm quý để tác giả hoàn thành những tác phẩm lưu lại cho nhân thế và đóng góp thêm phong phú, những thi phẩm giá trị vào dòng thi ca Phật Giáo ở hải ngoại.