BÙI GIÁNG VIẾT VỀ
THI SĨ ĐINH HÙNG
Con người nguyên thủy, ta không rõ tâm tình họ như thế nào. Đứng trước những quyền lực thiên nhiên, những bão giông sấm chớp, nhìn lại phận thân mình, họ khủng khiếp kinh hoàng, hay là hồn nhiên chấp nhận? Nhìn xác đồng loại bị rắn độc cắn, hoặc bị cọp beo vồ nát, họ rú lên những âm thanh hãi hùng như thế nào, ta không hình dung nổi. Những đêm đông mưa bão rét buốc, ẩn thân trong những hang đá lạnh lẽo, họ suy gẫm những gì về kiếp sống phù du của mình? Họ không được che chở trước trời đất. Đời sống vật chất cũng như tinh thần, đều hoàn toàn phó thác cho hiểm họa diêu mang. Không một đức lý, triết lý nhân sinh vũ trụ nào che chở linh hồn họ. Không mộtthánh hiền nào thiết lập một Hình Nhi Hạ để cho chui vào nằm yên ổn giữa cương thường.
Ngày nay, con người có được nhiều chốn “nương tựa”. Rượu đế, la de, cà phê, khiêu vũ, ci-nê... Nếu những thứ đó không còn chi cám dỗ nữa, thì con người chạy đi đào sâu những hang hố siêu hình, tồn thể, hết đào hang xuống tận ruột rà trái đất, lại đào hang lên khắp cõi thanh thiên. Hoặc chạy ra đại hải đuổi theo cá vô hình của trùng khơi. Hoặc chạy vào sa mạc, đuổi theo con chim vô dạng của hư vô. Rồi vẽ vời bao nhiêu luyến tiếc, chờ mong, hoài vọng, thiên hình vạn trạng để che lấp khoảng trống vắng dị thường của phù sinh huu huyễn. Rốt cuộc vẫn đối diện với cái khối lù lù bất khả tư nghị do Tử Thần dựng lên ở giữa đường. Cái khối dị dạng nọ quả thật gây cấn khôn hàn. Xua đuổi nó không được. Trừ khử nó không tan. Thôi đành ôm chầm lấy nó ve vuốt mà bảo rằng: - Tử Thần ôi! Em chính là Lẽ Sống của ta. Ta sống bao nhiêu tuế nguyệt lao đao lận đận, là chỉ cốt để thành tựu đời mình trong cái Chết Thơ Ngây Man mác. Ta ôm lấy em và cảm thấy ấm cúng vô song. _ Tử Thần ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền...
Đó là một lối tự dối mình vậy. Tô son phết phấn vào khuôn mặt Tử Thần, kể cũng là điều thiểu não lòng người bấy nay. Mà kể ra, suốt bình sinh, con người ta đeo bám vào những thứ gọi là văn minh, tiến bộ, gây dựng nên những thứ gọi là công nghiệp lưu tồn, chẳng qua cũng là một cách tự dối mình đấy thôi.
Đonh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận, trút bỏ hết mọi thứ “quà” của văn minh gạt gẫm, đi giữa thế kỷ hai mươi, ông muốn sống lại tâm tình ngưop72i nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh. Ông muốn từ khước hết mọi thứ xây dựng êm ấm của xã hội văn minh, muốn trơn trụi gào kêu giữa lạnh lùng vạn vật.
Chúng ta khóc như một bầy thú dữ
Lòng dã man nghe trái đất tan tành
Trái đất chưa tan tành, nhưng liên miên như đang tan tành, vì kể từ nguyên thủy, linh hồn con người và thể xác con người đã nối đuôi nhau tan tành giữa vạn vật. Và mọi cuộc xây dựng chân chính nào của con người, rốt cuộc vẫn như oái oăm góp phần thêm vào mọi thứ tàn phá ở mọi bình diện.
Người thi sĩ thâm cảm sự tình éo le đó trong tuổi xuân xanh, và nỗi phẩn nộ không sao dập tắt được. Không còn tìm đâu ra con đường “phục vụ”. Mọi cố gắng giữa nhân gian, dường nhgư phó thác hết cho diêu mang hỗn độn “giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân... “ Thì văn minh, thì đức lý, thì thì thì? Phân biệt thị phi, hư thực thế nào? - “Phù dung bên phù thế, cõi nào thực, cõi nào tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc?”
Thì tiếng gào thét của con người nguyên thủy trở thành tuyệt đối trắng trợn dã man cho vừa tầm diêu mang của cõi đời hỗn độn:
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ
Bên thành quách ta ra tay tàn phá
Giữa hoang loạn của lâu đài đình tạ
Ta thản n hiên đi trở lại núi rừng
Một mặt trời đẩm máu xuống sau lưng
Nhưng chỉ có thể thét lời ấy trong thơ, và thét một lần. Rồi ân hận tới. Trong cơn đoạn trường, vị “bạo chúa” kia đã nằm thiêm thiếp khóc. Vì cuộc tàn phá kia, chẳng giải tỏa được gì. - “Giết đi hồn nguyệt hoa chiều chiều? Giết đi cả dáng diễm kiều của xuân?” Tàn phá trong tưởng tượng xong một trận, lại tha thiết nguyện cầu cho nguôi lãng.
Đi vào mộng những Sơn Thần yên ngủ
Em! kìa em! đừng gọi thức hư không
Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ
Hồn ta đây thành tượng giữa Vô Cùng
Toàn tập Mê Hồn Ca, vẳng lên một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét của bạo động, của phản kháng, và lời than của ân hận nguyện cầu. Tiếng thét đạt tới chỗ cuồng loạn thống thết nhất. Lời than cũng thê thảm sâu xa nhất.
Tiếng thét và lời than trầm thống của Đinh Hùng “Sầu trong tà dục, vui ngoài thiện tâm” dội lên song song với Hàn Mặc Tử, mở ra cuốn sổ đoạn trường của con người thế kỷ hai mươi, không còn nơi cư trú. Cuốn sổ đoạn trường mở ra như thế để làm gì? Không biết. Không biết. Nhưng cuộc mở ra nào cũng đi tới một trận khép lại.
Đinh Hùng trong Đường Vào Tình Sử, vốn đã có một lối khép lại của riêng ông saau cái trận Mê Hồn Ca, một lối “dùng độc dược thử lòng thế tục”. Chúng ta còn có nhiều lối “tịch hạp” khác. Xin để tùy mỗi người tìm lối riêng của mình.
Ngôn ngữ thơ trong vài thế kỷ này đã nẩy nở xum xuê, thiên h ình vạn trạng. Hoặc ẩn mậtv thần bí, hoặc đơn giản như một lời cao dao, thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống. Cuộc sống vừa khủng khiếp, vừa nên thơ, cuộc sống không thể nào đem lý luận một cách máy móc. Luận lý học đã gạt gẫm người ta, người ta thi đua nhau tán dóc. Thằng thi sĩ không thể nào nhảy vào vòng luậ lý đú đởn để hơn thua. Nó cảm thấy chán chường khi phải cùng người luận lý bàn luận thị phi. Th ahồ để cho bọn họ mặc sức tán hưu tán vượn, ngấm ngầm dùng mọi thủ đoạn để sát hại thi ca và thằng thi sĩ.
Nhưng thằng thi sĩ có tội lỗi gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẻ lại một màu tuyết lạnh ngắt, một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho con người được rồ dại chịu chơi giữa phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn rợn vô thủy vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng hơn o bồng hôn h ít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn. Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly dị cũng chỉ ra tòa một bận, uống rượu li bì cũng có lúc tỉnh ra, chém giết nhau cũng mất công đào huyệt... Chi bằng vớ lấy bài ca mê hồn, thì lúc nào cũng có thể mở trận đảo tứ điên tam, ngang tầm với tứ khuynh ngũ phúc của cuộc thế dâu biển ngục tù. Tuyệt vọng? Thì thà rằng tuyệt vọng với những Kỳ Nữ Chiêm Bao, những Nữ Chúa Thái Cổ, những màu mắt nâu vô ngần của Gái Hải Đảo sơ khai, cũng hơn là tuyệt vọng vì những thiếu phụ đẩy đà ngồi trước quầy hàng đếm những đồng tiền dị dạng... Một tay đếm tiền, một tay gãi vào chùm lông nách... thì như vậy còn chi là khói trầm bén giấc mơ tiên? Còn chi là bâng khuâng trăng giải qua miền quạnh hiu? Ôi ông Hồ Dzếnh!
Thơ về nắng sáng lừng bay
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra
Cõi trần vắng tiếng Thiên Nga
Thơ không tuổi, ý không già: muôn năm
Gối lên Bắc Đẩu ta nằm
Nghe rung chân lạ, thơ thần mười phương.
((Hoa Xuân Đất Việt)