Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


 Saigon Times USA

 

TIẾNG HÁT

CÂU HÒ DÂN GIAN

 

VÕ THU TỊNH

 

 

Tiếng hát câu hò của dân ta có lẽ đã xuất hiện từ thời rất xa xưa, thời mà xã hội ta bắt đầu thành hình trên cơ sở nông nghiệp. Trong khi canh tác, trai gái nông thôn thường có dịp gặp gỡ, tiếp xúc nhau ở các buổi tác nước, cấy mạ, nhổ cỏ, gặt lúa, giã gạo, chèo đò...Họ thường dùng những câu hát tiếng hò để tăng thêm đà làm việc và nhất là để cho quên được phần nào sự mệt nhọc của mình. Về sau, họ cũng dùng những câu hát tiếng hò ấy để tự tình với nhau, như mấy câu ướm gợi của chàng trai sau đây:

Cô kia cắt cỏ một mình

Cho anh cắt với chung tình làm đôi

Cô còn cắt nữa hay thôi

Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

Hay

... Gặp em anh nắm cổ tay

Anh hỏi câu này: "Có lấy anh không?"

Câu nói ướm tình không quanh co, nửa thật nửa đùa, nhưng cô gái không quan tâm đến điều ấy. Đi chỗ nào lại chẳng gặp phải một vài chàng trai hát hò trêu ghẹo như thế. Có cậu còn sỗ sàng nói ẩu hơn nữa, cũng chẳng làm sao:

Vú em chum chúm núm cau

Cho anh bóp cái, có đau anh đền

Vú em chỉ đáng ba tiền

Cho anh bóp cái, anh đền quan năm

Nhưng cũng có chàng trai, ăn nói kín đáo, lịch sự hơn:

Gặp em anh nắm cổ tay

Nhờ vá cái áo, nhờ may cái quần...

...Cô kia đứng ở bên sông

Muốn sang anh ngã cành hông cho sang

Hoặc

Đường xa thì thật là xa

Mượn mình làm mối cho ta một người

Một người mười tám đôi mươi

Một người vừa đẹp vừa tươi như... mình.

Con trai tỏ tình yêu trước với con gái như thế là điều thường xãy ra trong xã hội phong kiến Nho giáo phụ hệ.

Nhưng ở xã hội nông thôn ta thời trước, có điểm rất đặc biệt là các cô gái cũng dùng tiếng hát, câu hò để trêu ghẹo hay để tỏ tình yêu trước bạn trai.

"Ngày xưa, có chàng trai kia vào rừng bắn chim, gặp một người con gái. Cô ả hát đùa một câu:

Chim gì trên rừng có vú

Cá gì dưới bể không đầu?

Anh mà đối được

Em xin làm hầu thứ hai."

Chàng trai liền đáp lại rằng

Con giơi trên rừng có vú

Con cua dưới bể không đầu

Anh đà đối được

Em hãy về làm hầu nhà anh!"

"Cô ả chỉ hát mấy câu để đùa ghẹo, không ngờ chàng trai đối được ngay, nên xấu hổ bỏ chạy"

Nhưng có khi, một vài câu hò hát đùa cợt lại đưa đến chỗ thành vợ thành chồng.

"Xưa có cô con gái, một hôm đi hái mướp, lúc đang đứng cởi áo ra khều, một cậu con trai đi qua trông thấy, lên giọng hát:

Vú em như quả mướp hương

Tay anh phật thủ, đôi đường lấy nhau.

Cô gái vội vả mặc áo và hát lại:

Mình em như mướp nở hoa

Mình em như bướm bay qua trên nghành

Cậu con trai liền hát theo:

Em như hoa mướp trên nghành.

Đây anh con bướm tung hoành càng vui.

Cô gái hát tiếp:

"Anh hùng ví biết thuyền quyên.

Xin đưa quả mướp làm tin gọi là!

"Rồi cô con gái đưa cánh hoa mướp cho cậu con trai, cậu con trai đưa nụ cà cho cô con gái. Sau đó cô cậu lấy nhau. Nên trong dân gian thành ngữ có câu: "Nụ cà, hoa mướp" để chỉ đôi bên còn mơn mởn thanh tân."

Cũng có khi, chỉ nhờ đáp được một câu hát đó mà chàng trai lấy được vợ:

"Ngày xưa có người học trò đi hỏi vợ, gặp phải chị ả này ví von đối đáp, thách rằng:

"Gái này chẳng văn chương phú lục gì cả, chỉ xin đố một câu, hể đáp được thì bằng lòng. "Người học trò nhận lời. Người con gái hò lên một câu, đó rằng:

Dưới đời gì lớn hơn voi

Gì cao hơn núi gì dài hơn sông?

Người học trò ứng khẩu hát đáp lại ngay;

Anh đây dạ lớn hơn voi.

Chí cao hơn núi, tình dài hơn sông!

"Chị ả chịu là tài. Rồi, chỉ vì một chút đối đáp mà nên vợ nên chồng."

Cũng có trường hợp, một câu hò hát đối đáp qua đường, thế mà sáu bảy năm sau, chàng trai tìm cô gái để cưới làm vợ.

"Xưa có bà sư đem một đứa con gái nhỏ về nuôi để sau hầu hạ đở đần trong chùa. Khi cô ả lớn lên, độ mười lăm, mười sáu tuổi, nhan sắc đã hơn người mà thông minh cũng không kém ai.

"Trong làng có anh học trò, ngày ngày đi đến trường, thường ngồi nghỉ mát dưới gốc hai cây gạo ở trước cửa chùa. Có một buổi, anh ta đang ngồi nghỉ mát, thấy cô gái có nhan sắc kia đi ra hái hoa. Anh ta nói đùa đôi câu. Cô gái chẳng đáp, chỉ hát rằng:

Em như hoa gạo trên cây

Anh như cái đám cỏ may giữa đường.

"Anh học trò biết cô gái hát chọc, nên hát lại rằng:

Một mai trời tốc gió rung.

Hoa gạo nhảy xuống nằm cùng cỏ may.

"Hát xong, anh học trò về nhà, cô con gái trở lại chùa, hai bên từ đó không có liên lạc gì với nhau cả. Cách độ sáu bảy năm sau, anh học trò thi đỗ. Bao nhiêu nhà giàu tấp tểnh muốn đem con gái gả cho nhưng anh không nhất định nơi nào. Một đêm, anh nằm chiêm bao thấy một ông lão vào nhà, đến tận giường anh mà bảo rằng:"Cây gạo, cây gạo, bách niên giai lão."

"Anh ta chợt tỉnh lại, suy nghĩ hồi lâu, nhớ ngay đến lúc còn đi học, ngồi nghỉ dưới gốc hai cây gạo tai như còn nghe văng vẳng tiếng của người con gái hái hoa hát đối đáp với mình khi xưa. Sáng dậy, anh đi dò hỏi biết cô gái vẫn còn tại chùa, anh liền thưa đầu đuôi với cha mẹ, và xin cho người đi dạm.

"Bà sư bằng lòng ngay, mà cô gái lại càng bằng lòng hơn. Hôm đám cưới, bà sư có thơ mừng, hai câu kết như sau:

Cỏ ướm lòng hoa hoa đợi cỏ

Ba sinh âu hẳn cũng duyên trời.

"Hôm nhị hỉ, bà sư nói với con rể rằng:

Ai ngờ chốn am thanh, cảnh vắng này mà lại có dâu rể về nhị hỉ.

Cô dâu nửa vui nửa thẹn, nói rằng:

"Bạch thầy, cũng nhờ co ù"trời tốc gió rung" mà chúng con mới có được ngày hôm nay."

Câu hát tiếng hò không phải chỉ là phương tiện cho trai gái tỏ tình yêu với nhau hầu đi đến cưới hỏi thành vợ thành chồng mà thôi. Câu hát tiếng hò còn là một phương tiện mà các phụ nữ ngày xưa dùng để khẳng định lập trường tình cảm của mình đối với mọi người xung quanh như ở chuyện cổ tích dưới đây:

"Ngày xưa, có một người lấy hai vợ. Vợ cả đẹp mà hiền lành. Vợ hai đã xấu lại chua ngoa, độc ác. Ban đầu hai người vợ cùng ở chung một nhà. Về sau, hai người ngày nào cũng cãi nhau, đánh nhau, chồng không sao chịu được, cho mỗi người ở riêng một nhà, nhưng cũng không cách xa nhau mấy.

Có một thời, người chồng đi buôn vắng nhà, vợ cả nghe vợ hai ở bên nhà nghêu ngao hát rằng:

Chồng chung chồng chạ!

Ai khéo hầu hạ

Thì được chồng riêng

Chi mà sợ, chi mà kiêng!

"Vợ cả biết vợ hai muốn gây sự với mình, mà vẫn làm thinh không nói năng gì. Nhưng trong bụng không thể không giận được. Hôm sau về nhà kể chuyện cho mẹ, cho em nghe. Mẹ khuyên rằng:

-Một sự nhịn là chín sự lành. Thôi con hãy cứ nhịn nó đi, đừng hát đối đáp làm gì. Đợi chồng con về sẽ hay.

Người em gái cũng nhủ rằng:

-Cần chi phải để tâm. Chị không nghe người ta nói:

Dù anh năm bảy nàng hầu

Em đây cũng cứ ngồi đầu chính thê!

"Người vợ cả nghe theo lời mẹ và em, về nhà mặc cho vợ hai hò hát khiêu khích gì, vẫn tiếp tục làm thinh..."

Và trong dân gian ngày xưa, cũng có một câu chuyện khác nữa:

"Nhà kia có con gái đã nhận gả cho một người ở cùng làng. Nhà trai sêu tết đã đôi ba năm, và nhà gái đã hẹn đến năm sau cho cưới. Đôi bên con trai con gái cũng có lòng yêu nhau.

Chẳng may trong năm, đứa con trai trèo cây khế thế nào, ngã què tay, cha mẹ đứa con gái toan lật không muốn cho cưới, định đem gả cho nhà khác. Nhưng đứa con gái không nghe. Cha mẹ bảo sao cũng không được, ai nói gì cũng mặc kệ, đứa con gái chỉ hát:

Hai tay vịn bẻ chanh, chè

Vừa đội thì lấy tay què mặc tay!

"Cuối cùng, cha mẹ cũng phải chìu theo ý con gái mà cho chàng trai què tay ấy cưới"

Ngoài ra, câu hát tiếng hò cũng còn là một phương tiện giúp cho người đàn bà thời xưa bày tỏ được những nỗi băn khoăn trước một vấn đề khó xử, không biết nói năng, ăn ở ra sao:

"Xưa có hai vợ chồng nhà kia, chẳng may chạy giặc mỗi người lạc một ngã. Người vợ chạy trốn lên rừng, nhịn đói, nhịn khát, khốn khổ quá sức. May gặp được anh kiếm củi đem về nhà nuôi mới khỏi chết. Rồi lâu ngày không biết nương tựa vào đâu, đành phải ở lại với anh kiếm củi làm vợ chồng.

"Mấy năm sau, giặc giả yên, người chồng đi tìm mãi mới gặp. Vợ thấy, nghĩ bụng rằng:

"Bây giờ ta không về với chồng thì ta bất nghĩa, mà ta về với chồng thì ta bị tiếng bất trinh"

"Trong lòng lưỡng lự không biết nên làm thế nào cho phải, chị ta mới hát một đôi câu thử xem hai bên "nghĩa cũ tình nay" xử trí với nhau như thế nào? Câu hát rằng:

Muốn tắm mát lên ngọn sông đào

Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh

Đôi tay em vít cả đôi cành

Quả chín thì hái, quả xanh không lẻ đừng.

Ba bốn năm nay ăn ở trên rừng

Chim kêu, vượn hú, nửa mừng, nửa lo

Em trót sa chân lỡ bước xuống đò!

Người kiếm củi nghe hát, liền nói với người chồng cũ rằng:

"Thôi. Bây giờ bác đã tìm được bác gái, thì bác đem bác ấy về. Tôi bằng lòng:"

Người chồng cũ đem tiền bạc ra để tạ ơn người kia, nhưng người kia nhất định không chịu nhận. Rồi hai vợ chồng đem nhau về.

Từ nghìn năm về trước, xã hội ta vốn đã tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Về sau đến khi nước ta bị Trung Hoa đô hộ, thì xã hội Việt Nam chuyển dần sang chế độ phụ hệ, phong kiến, Nho Giáo. Nhưng Nho giáo chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong tầng lớp vua quan, phú thương, nho sĩ. Ở đô thị, con trai, con gái, nhất thiết không được đường đột tiếp xúc với nhau, việc yêu thương, kết hôn đều do cha mẹ định đoạt, nhà nho xưa có câu dạy con cháu:

Con trai chớ đọc Phan Trần

Con gái chớ đọc Thúy Vân, Thúy Kiều.

Vì trong truyện Phan Trần, trai gái hẹn hò nhau trong chùa, trước bàn Phật, trong truyện Kiều, cha mẹ đi vắng, đêm khuya Kiều một mình qua nhà Kim Trọng đàn hát, tình tự, thề nguyền.

Trái lại, trong Truyện Lục Vân Tiên của cụ đồ Chiểu, khi Lục Vân Tiên giữa đường cứu Nguyệt Nga thoát khỏi tay bọn cướp, Nguyệt Nga trong kiệu bước ra để tạ ơn, thì Lục Vân Tiên vội vàng ngăn lại:

Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai!

Nhưng suốt bao nhiêu thê kỷ bị Bắc thuộc, ảnh hưởng Nho Giáo vẫn không thấm nhuần sâu rộng xuống nông thôn Việt Nam được. Phải chăng, dân gian ta ngày xưa vẫn coi Nho giáo như là một thứ văn hóa ngoại bang đã theo gót quân xâm lăng du nhập vào nước ta. Cho nên, dân gian vẫn khuyến khích các cô gái đồng quê Việt giữ theo phong tục mẫu hệ của dân Việt ngày xưa:

"Ăn chơi cho hết tháng hai

Để làng gióng đám cho trai dọn đình.

Trong thời đánh trống rập rình

Ngoài thì trai gái tự tình với nhau."

Qua câu hát tiếng hò, các cô gái trẻ có thể nói xa, nói gần, ví von, đùa cợt, nửa đùa nửa thật, tình tứ lả lơi, ranh mãnh, ngạo nghễ, các chàng trai có muốn giận cũng không giận được, nếu đồng tình thương yêu nhau càng hay, hoặc có từ chối, các cô gái không thể vì thế mà mất mặt.

Đến cuối thế kỷ thứ 17, năm Ất Hợi (1695), Thích Đại Sán ở Quảng Đông, được Chúa Nguyễn Phúc Chu rước sang nước ta để giảng kinh. Vị cao tăng Trung Hoa này rất ngạc nhiên nhận thấy nước Việt Nam, sau bao nhiêu thế kỷ Bắc thuộc, chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa rất lâu, nhưng phụ nữ nông thôn ta vẫn chưa chịu khép mình vào lễ giáo Khổng Mạnh, mà công khai tự do đi sớm về khuya một mình, trọn quyền giao dịch, mua bán...Thật trái hẳn với phụ nữ Trung Hoa lúc đó, không bao giờ được phép ra khỏi nhà, nếu cần đi giao dịch, mua bán, thăm viếng họ hàng cũng phải có người theo gót trông chừng, canh giữ.

Tóm lại, dùng câu hát tiếng hò để tỏ bày tình yêu trước con trai như thế, các thôn nữ ta đã tiếp tục một tập quán còn sót lại của chế độ mẫu hệ Việt Nam, để duy trì phần nào thế chủ động của họ trong sự trao đổi tình cảm đối với nam giới, trong việc thử thách, chọn lựa đôi bạn của đời mình, cho được vừa ý mà thôi. Một hành động hợp lý, "tiến bộ", có tính cách "đi trước thời đại".

Mặt khác, "câu ca tiếng hò" đòi hỏi một trình độ nghệ thuật đa dạng cao: ứng tác nhanh của một thi sĩ, giọng hát hay của một ca sĩ, diễn tấu giỏi như một kịch sĩ.

Mà nghệ sĩ tính vốn là một bản chất tự hữu của con người Việt Nam, tình ý được diễn đạt bằng một ngôn ngữ thanh âm phong phú, lên bỗng xuống trầm, cấu tứ nhịp nhàng, cân đối...Cho nên, ta không ngạc nhiên khi nhận thấy một phần lớn các cô gái thôn quê ngày trước đã ứng tác những câu hát, tiếng hò một cách dễ dàng để sử dụng như một vũ khí sắc bén để tranh thủ, duy trì vớt vát cho được một ít uy thế, đặc quyền của nữ giới trong chế độ mẫu hệ ngày xưa, mà ngày ngay đã bị sụp đổ, rã tan.