ĐẤT TRỜI BAO LA
LÂM THANH HUYỀN
PHẠM HUÊ dịch
Ruồi trong cửa giấy cố tìm đường
Chẳng thấy ngõ ra đứng thở than
Đột nhiên gặp phải đường dẫn đến
Mới biết bình sinh mắt bị che (1)
Bạch Vân Thủ Đoan Thiền Sư
Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục có một câu chuyện kể lại như sau:
Cổ Linh Thần Tán Thiền Sư lúc thiếu thời thụ nghiệp tại Phúc Châu Đại Trung Tự. Sau đó ông đi hành cước nhiều nơi trước khi gặp Bách Trượng Hoài Hải. Nhờ sự chỉ điểm của Bách Trượng mà ông đã tìm được ý nghĩa của đạo. Sau khi khai ngộ, ông lập tức trở về Đại Trung Tự với hy vọng là sẽ giúp cho vị sư phụ đầu tiên của ông cùng khai ngộ. Khi gặp mặt, sư phụ ông hỏi:
- Từ ngày rời khỏi nơi đây đi tham học khắp nơi con có học hỏi được điều gì mới lạ hay không?
Thần Tán Thiền Sư cúi đầu trả lời:
- Thưa thầy cũng chẳng có điều gì lạ cả.
Sư phụ cắt đặt ông trở vào làm những công việc hằng ngày bình thường như những đệ tử khác.
Một hôm, Thần Tán săn sóc tắm gội cho thầy, ông bỗng cất tiếng than rằng:
- Chùa của chúng ta tuy nguy nga tốt đẹp nhưng tiếc rằng tượng Phật to lớn trong chùa lại không hiển ứng.
Sư phụ quay lại nhìn ông ngạc nhiên một lúc rồi nói:
- Tuy Phật không hiển ứng, nhưng Phật vẫn phát ra hào quang đấy chứ.
Lại một lần nữa lúc sư phụ ông đang đọc kinh dưới ánh đèn, có một con ong tìm cách bay ra cửa, tuy đã cố gắng bao lần mà vẫn không thể nào thoát ra được lớp giấy kiếng. Thần Tán Thiền Sư cảm khái thốt nên lời:
- Thế giới rộng rãi bao la như vậy mà ngươi không biết cách tìm đường mà chỉ mù quáng chui một lối thoát trên tấm giấy thì bao giờ mới ra được phía bên ngoài.
Thấy sư phụ vẫn làm thinh đọc sách, Thần Tán tùy khẩu ngâm một bài thơ:
Cửa trống chẳng chịu ra
Vào song gặp trở ngại
Trăm năm mài giấy cũ
Ngày nào thấy mây xanh (2)
Sư phụ nghe xong bất chợt động tâm, bèn bỏ quyển kinh xuống rồi hỏi:
- Lúc đi hành cước phương xa, con đã gặp được những ai? Ta thấy hình như con đã có những tri thức tiến bộ hơn lúc trước, ngay cả những lời nói cũng có vẻ cao thâm vô cùng.
Thần Tán Thiền Sư quỳ xuống thưa với thầy rằng:
- Con đã gặp được ngài Bách Trượng Hoài Hải, ngài đã chỉ điểm cho con được khai ngộ, vì vậy con vội vàng về đây mong báo đáp ơn thầy trong muôn một.
Sư phụ của ông lập tức tập hợp tăng chúng trong chùa rồi mời Thần Tán Thiền Sư đăng đàn thuyết pháp. Thần Tán dùng tâm pháp của Bách Trượng truyền đạt lại cho tăng chúng, ông cũng đọc một bài kệ như sau:
Ánh trăng mầu nhiệm, chiếu sáng căn trần
Hiện rõ hình hài, không cầu văn tự
Tính tâm trong suốt, vốn đã viên thành
Rời bỏ vọng tưởng, lập tức thành Phật (3)
Sư phụ của Thần Tán Thiền Sư sau khi nghe xong lập tức khai ngộ, ông ta cảm khái nói rằng:
- Ta may mắn sống cho đến lúc tuổi già mới nghe được những Thiền Pháp hay như vậy kể ra cũng không uổng một đời tu luyện.
Câu chuyện Thần Tán Thiền Sư hướng dẫn sư phụ của ông khai ngộ thật khiến cho người ta cảm động. Trong câu chuyện này đã hàm chứa biết bao nhiêu tình nghĩa thầy trò, tư tưởng báo ân, tinh thần cao thâm và nhất là tính bình thường của sự ngộ đạo. Điều này cho chúng ta biết được rằng Phật Pháp không rời xa nhân tình, Thiền Tâm chẳng tị hiềm thế sự. Những bậc Thiền giả khai ngộ đều có được cái tâm bình thường, phong cách cao siêu của họ khiến cho chúng ta phải thán phục.
Trong sinh hoạt của con người, chúng ta có hai kinh nghiệm bình thường nhất: Khi có được một món đồ có giá trị, ta vội vã tìm một nơi kín đáo để cất giấu, rồi đến một lúc nào cần đến thì lại tìm không ra. Điều này dễ hiểu là chúng ta đã không dùng một cái tâm bình thường để đối xử với sự vật hay sự việc đó, lẽ dĩ nhiên nó cũng sẽ dùng một thái độ không bình thường đối xử ngược lại với ta.
Kinh nghiệm thứ hai là có những vật dụng cần thiết thường sử dụng mà ta lại không thể tìm ra, cuối cùng mới phát giác ra là ta đã để ở một nơi chốn tầm thường nhất như trên bàn, trong túi áo, hoặc ngay cả trên lòng bàn tay. Lý do là chúng ta thường đứng núi này trông núi nọ, hay quên mồi mà bắt bóng, những sự việc này thường đặt ta vào một trạng thái gần như mù lòa.
Những giống vật nhỏ như ong, bướm, ruồi, muỗi, châu chấu, thiêu thân cũng có những nhận thức tương tự, đôi khi thấy được một nguồn sáng là chúng cố sức lao thẳng, tuy bị màn cửa chắn lại mà cũng vẫn tiếp tục phóng vào một cách mù quáng. Đó là vì loài động vật này không có đầu óc, chúng như những kẻ mù cứ theo một phương hướng nhất định mà tiến vào. Nghĩ lại kiếp con người chúng ta khi bị cảm giác của lục văn làm cho ý thức mờ mịt thì chúng ta nào có khác chi giống ruồi, muỗi, thiêu thân.
Vì vậy, khi đọc đến những đoạn thơ trữ tình của Bạch Vân Thủ Đoan Thiền Sư, tôi rất lấy làm cảm động. Ông ta tự ví như một con ruồi cố chui vào màn cửa giấy. Đến một lúc nào tự nhiên tìm được phương hướng lúc đến thì mới giác ngộ biết được bình sinh đôi mắt đã bị bao che bởi một màu đen u minh. Chúng ta nên chú ý đến ba chữ đường dẫn đến, vì nếu chúng ta tìm ra con đường dẫn đến, có nghĩa chúng ta đã tìm được bột mặt thật lúc cha mẹ chưa sinh ra ta. Lúc đó ta mới bất chợt giác ngộ, trong lòng tràn đầy nỗi hân hoan vui mừng, mới biết được cõi trời đất bao la và đẹp đẽ biết bao.
CHÚ THÍCH
1- Nguyên văn âm Hán Việt:
Dăng ái tầm quang chỉ thượng tán,
Bất năng thấu xứ kỷ đa nan?
Hốt nhiên tràng trước lai thời lộ,
Thỉ giác bình sinh bị nhãn man.
2- Nguyên văn âm Hán Việt:
Không môn bất khẩn xuất,
Đầu song dã đại si,
Bách niên tán cố chỉ,
Hà nhật xuất đầu thì.
3. Nguyên văn âm Hán Việt:
Linh quang độc diệu, hồi thoát căn trần
Thể lộ chân thường, bất cụ văn tự.