TIẾNG HÁT DẬY LÊN
TỪ TRÁI TIM
NGƯỜI TRẺ TUỔI
PHAN NHẬT NAM
Năm 1975 khi những người lính miền Nam đang tận sâu khổ nạn tù ngục, giữa vũng lửa của chế độ cộng sản. Chế độ mà họ đã tận sức chiến đấu nhưng không thành vì vận nước điêu linh thì Việt Dzũng chỉ vừa đến tuổi 17, chưa đến tuổi thành niên. Nước mất, người lính cộng hòa thua trận, thiếu niên Việt Dzũng và bà ngoại quyết định đành rời bỏ gia đình, ra khỏi nước. Sau 22 ngày trên biển khi không còn thức ăn, nước uống, cũng như chứng kiến biết bao nhiêu cảnh đau thương trên biển, tàu cập bến Tân Gia Ba. Sau đó tất cả lại chuyển qua một chiếc tàu khác, thẳng tới trại tị nạn Subic, Phi Luật Tân. Tại trại Subic, dẩu còn nhỏ, không điều kiện di chuyển bình thường, Việt Dzũng vẫn tham gia với ban tổ chức điều hành trại qua đón tiếp, giúp đở những chuyến tàu tị nạn đến sau cho đến khi trại Subic đóng cửa. Rời trại tị nạn này, Việt Dzũng cùng bà ngoại được đưa sang đảo Guam, rồi chuyển sang Trại Ft. Chaffee ở Tiểu Bang Arkansas. Cuối cùng trước khi trại đóng cửa, anh được Đức Cha Bernard Law, Giám Mục địa phận Springfield, Missouri, bảo trợ, gởi đến tạm trú trong một gia đình người Mỹ.
Năm 1976, Việt Dzũng tiếp tục học Trường Trung Học St. Agnes, Missouri và tự trau dồi âm nhạc theo như sở thích từ nhỏ. Một năm sau, 1977, Việt Dzũng đoàn tụ với gia đình ở Wood River, Tiểu Bang Nebraska. Năm 1978, anh chính thức bước vào lãnh vực âm nhạc, cùng với Vernon Larsen một người bạn học lập ban song ca “Firebirds” (Chim Lửa) chuyên trình diễn nhạc du ca của Mỹ. Cũng năm 1978 này, Việt Dzũng đoạt giải nhất về sáng tác nhạc country music tại cuộc thi Iowa Grand Old Orphy. Anh là người Việt Nam đầu tiên, cũng là người Á Châu đầu tiên chiếm giải nhất về bộ môn sáng tác nhạc country music viết trực tiếp bằng Anh Ngữ.
Đến đây chúng ta có thể kết luận tiên khởi và cũng chung nhất: Nếu chỉ muốn tiếp tục phát triển tài năng, theo đuổi ngành ca nhạc thuần túy, chắc chắn người trẻ tuổi Việt Dzũng có đù điều kiện để trở thành nghệ sĩ sân khấu trình diễn và sáng tác trong giòng chính ở Mỹ với khả năng Anh Ngữ vượt trội, tính cảm thụ cao, và năng lực làm việc vượt bực khó ai có thể theo kịp. Chúng ta cũng có thể suy diễn rằng, điều kiện thể chất hạn chế của anh không hẳn là yếu tố trở ngại, nhưng sẽ đặt khán giả vào tình đồng cảm với người nghệ sĩ (Trường hợp tương tự đối với Ray Charles, Sammy Davis). Việt Dzũng cũng không theo đuổi ngành y như thân phụ, thân mẫu hằng mong muốn dẩu đã tốt nghiệp Cử Nhân Hóa Học (Bachelor of Chemistry) . Nhưng Việt Dzũng đã từ bỏ tất cả những tương lai bình yên với sở học, khả năng thích hợp. Anh đến với Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại - Những người đã thấm hiểu nghĩa Tự Do mua bằng sinh mạng của mỗi cá nhân và Nỗi Đau của cả Dân Tộc. Việt Dzũng lên tiếng hát cho những Người Cùng Khổ - Những Người không có cơ hội lên tiếng nói. Những người vượt biển đã chết. Những em bé theo mẹ vượt biên tìm tự do bị hải tặc dày xéo, hãm hại trong tận cùng đau đớn nhục nhằn. Những dân oan khiếu kiện mấy mươi năm từ buổi điêu linh 1975, hằng ngày lây lất nơi vườn hoa Lý Tự Trọng, Hà Nội; nơi Văn Phòng Dân Oan Khiếu Kiện 2 ở Sài Gòn để chờ đợi một lần cứu xét. Những mẹ già bị cướp ngôi nhà xưa bởi lũ quan tham hiện đang độc trị đất nước. Nhưng không những chỉ thế, sau lần nước mất nhà tan mà hậu quả kéo dài cho đến hôm nay với xã hội Việt Nam biến dạng tệ hại trên tất cả mọi phương tiện mà điều bất hạnh nhất là Nhân Quyền bị chà đạp, và lý do ngụy tạo “chống đối chế độ” trở thành một tội danh mà kẻ cầm quyền cộng sản mặc sức chụp lên trên tất cả mọi con người muốn nói lời Yêu Nước trong nghĩa Tự Do. Và Tuổi Trẻ là đối tượng đầu tiên bị bức hại khinh miệt… Việt Dzũng phải hát vì nỗi Thống Khổ của Người Việt Nam.
Không bằng tu từ ước lệ. Không bằng những hình dung từ hoa mỹ. Việt Dzũng viết lại Nỗi Đau Người Việt với những hình ảnh cụ thể nhưng chứa đựng đủ đoạ đày mà người Việt của tất cả các giới, của nhiều thế hệ đã trải qua một lần sống/chết với chính bản thân sau ngày 30 tháng 4, 1975. Thuyền trôi xa... về đâu ai biết? Thuyền có về... ghé bến tự do? Trời cao xanh... Hay trời oan nghiệt Trời có buồn... hay trời vẫn làm ngơ?... Người buông xuôi về nơi đáy nước.. Người có mộng một nấm mồ xanh? Biển ngây ngô hay biển man rợ Biển có buồn hay biển chỉ làm ngơ...?” Nỗi Đau của Dân Tộc Việt đã khiến người nhạc sĩ chạm đến cốt cõi của phận nhân sinh: Vấn đề của Thượng Đế. Vấn đề của “Thiên Địa bất nhân (?)” mà ngàn năm triết học cũng không thể giải thích. Và con người thế giới hẵn đã tìm ra nguồn gốc của nguồn mối bi thảm của phận người – Với điễn hình với phận người Việt dưới chế độ cộng sản mới tìm ra lời giải thích, cách mô tả đúng nhất về Sự Ác- Tính Phi Nhân của một chế độ hằng đánh lừa nhân nầy kia vẫn tồn tại và đang củng cố bằng bạo lực từng ngày ở Việt Nam. Người Việt không xây dựng triết học. Người Việt chỉ mô tả đủ về Nỗi Đau qua những phẩm vật đơn giản tầm thường chứa đựng đủ lượng uất hờn của một dân tộc: “Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay... Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may Mẹ may hộ con tim gan quá đoạ đày... Con gởi về cho cha một manh áo trắng Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình...” Thế nên tiếng hát Việt Dzũng luôn là một điều cần thiết. Cũng bởi con người phải vượt sống với Hy Vọng. Hy vọng vượt qua cái chết. Cao hơn cái chết.
Hậu từ: Chữ nghĩa, nốt nhạc, lời ca, giọng hát, sắc màu tất cả chỉ là ký hiệu… Nhưng tất cả ký hiệu nầy chỉ trở nên là tác phẩm văn học, đại nhạc phẩm. Cũng thế, người viết văn, ca, nhạc sĩ, họa sĩ.. chỉ nên thành Nghệ Sĩ Lớn khi tác phẩm của họ mang đủ Hơi Thở, Sự Sống, Nỗi Đau, Cảnh Chết của thời đại họ chung phần. Việt Dzũng sống đủ với mỗi chúng ta qua truyền giao lại cho mỗi người Nguồn Hy Vọng bất diệt mà Người Nghệ Sĩ hằng cảm nhận từ trái tim luôn đập nhịp Thương Yêu.
Việt Dzũng đã thực sự ra đi vào ngày 20-12-2013 tại Quận Cam Nam California. Đã có hàng chục ngàn người Việt đưa tiễn Việt Dzũng đến nơi an nghỉ ngàn thu và cả triệu người Đồng Hương nhỏ lệ thương tiếc Việt Dzũng trên khắp thế giới.