HÒ TRÊN SÔNG THU BỒN
VÀ VĂN HÓA XỨ QUẢNG
DƯƠNG VĂN ÚT
Hò là một trong những loại hình văn nghệ bình dân được hầu hết mọi người yêu chuộng. Có thể chia Hò thành hai bộ phận: hò khi lao động, sản xuấttrên sông nước và hò khi lao động, sản xuất trên cạn.
Tuỳ vào đặc điểm và điều kiện cụ thể mà Hò có sự biến tấu khác nhau để phù hợp với mỗi loại hình Hò (trên sông hay trên cạn). Ở vùng sông nước Quảng Nam, Hò trên sông nước được xem là hình thức sinh hoạt tinh thần dân dã của ngư dân.
Hò trên sông nước gồm nhiều điệu mang tên gọi khác nhau. Các giọng Hò khoan, còn gọi là Hò chèo thuyền trên sông Thu Bồn không phải cùng một giai điệu hay một tiết tấu, mà do hoàn cảnh địa lý từng khúc sông khác nhau, giọng hò ở mỗi nơi có những nét đặc trưng.
Điệu Hò vùng thượng lưu và trung lưu sông thường thì lời ca ngắn gọn, súc tích, lồng vào giai điệu có tiết tấu gián cách, đọc nghe tưởng như rời rạc đứt quãng, có phần khô cứng về ngôn từ, sẽ khó có sự cảm nhận một cách tường tận. Tuy nhiên, khi những giai điệu này hoà nhịp cùng không gian tĩnh lặng của miền sơn cước và tiếng sóng đập vào vách đá thì người nghe mới cảm nhận hết sự phối hợp chặt chẽ, sinh động liên tiếp và hài hoà giữa điệu Hò với thiên nhiên.
Trái lại, về đến vùng hạ lưu thì giai điệu lại luyến láy trầm bổng hơn, tạo nên cảm giác đong đưa, quyến rũ đến lạ kỳ. Ngôn từ giàu hình ảnh, nội dung thể hiện phong phú, giai điệu nhẹ nhàng đến sâu lắng. Có lẽ, đó chính là đặc điểm dễ cảm nhận trong điệu Hò sông Thu Bồn dưới miền hạ lưu.
Khác với dòng sông Hương vốn luôn êm đềm, hiền hoà và thơ mộng, giống như tính cách dịu dàng, thanh tao, e thẹn, e lệ và có phần khép kín của người con gái xứ Huế, từ lâu đã đi vào thơ ca đặc biệt là trong điệu hò mái nhì, khúc Nam ai Nam bình; khác với điệu Hò sông Mã bằng tiết tấu, nhịp điệu cùng với bản thanh âm của dòng sông Mã đã góp phần làm nên một bề dày về cơ tầng văn hoá và làm nên bản sắc đặc trưng của vùng văn hoá Xứ Thanh; điệu Hò trên sông Thu Bồn thì lại có nét giản dị, thẳng thắn trong tính cách của con người xứ Quảng với tiết tấu vừa chậm, vừa nhanh, có ba thang âm (thấp, trung và cao) cùng các sắc thái này được diễn tả theo cách gọi dân gian là điệu mái dài, điệu mái lơi và điệu mái nhặt.
Với tính chất ngắn, dốc và khúc khuỷu của dòng sông Thu Bồn, người chèo thuyền thường hát điệu mái dài khi chiều xuống lúc trăng treo, trên những chuyến đò dọc lúc chở người, lúc chở hàng rất nhịp nhàng thoải mái; nhưng đến mùa đua ghe thuyền thì tiếng Hò trở nên nhanh nhẹn, khoẻ khắn, khẩn trương hơn; đặc biệt, vào những ngày hội thì các ghe rời vạn đi dự đua, các tay chèo hào hứng hát điệu mái lơi trong khí tiết phấn chấn của ngày hội:
“Phố mình là phố Thu Bồn
Tai nghe lời hiệu thỉnh anh em mình ra đi
Ra đi gặp hội trường thi
Trống hội cờ phất, ngựa mình tranh tiêu
Phách ba, phách nhất, phách nhì
Chèo xeo, chèo lái chúng ta đồng lòng"
(trích Hò chèo ghe Quảng Nam)
Hò trên sông Thu Bồn không những hấp dẫn bởi giai điệu, tiết tấu mà cả nội dung thể hiện, mang đậm phương ngữ và tính cách của con người xứ Quảng: đó chính là một đời sống tình cảm chân thành của người dân với cuộc sống; đó chính là hình ảnh của những con người chất phác, thẳng thắn và giản dị; đó chính là tính chân thực, khôi hài, trào phúng;...
Từ đời sống tình cảm chân thành, dân dã.
Tiếng Hò trên sông Thu Bồn ra đời từ chính trong quá trình lao động và sinh hoạt của người dân. Dòng sông Thu Bồn hiền hoà và thơ mộng đã nuôi dưỡng tình yêu và tâm hồn nghệ sĩ của người dân, để rồi, mỗi khi buông mái chèo, ai cũng sẽ dễ dàng cảm thấy rung động lòng mình về tình cảm thiết tha, mặn nồng, niềm tin yêu của con người đối với quê hương bằng vài câu Hò ngẫu hứng.
Dòng sông Thu trong tâm tưởng của người dân luôn hằng sâu những hình ảnh mộc mạc, dân quê khó phai mờ, để khi nghĩ về quê hương, họ lại cất lên những giai điệu tha thiết, “sặc” tiếng Quảng Nam:
“Bớ nường (ớ nàng) vội bước chân ra
Dò chừng dặm biển, bôn ba nương hoè
(ruộng đồng trồng cây hoa hoè: ý nói bôn ba đâu đó)
Mùa xuân gió thổi the the (nhè nhẹ)
Tiếng gà văng vẳng, bóng tre mơ nàng”
(Hò khoan Quảng Nam)
Sự sống luôn vận động và cuộc sống luôn đổi thay, lòng người lại hướng về quê hương với những thú vui tao nhã của hương vị dân dã nơi quê nhà:
“Có duyên lấy đặng chồng nguồn
Ngồi trên ngọn gió có buồn cũng vui
Nhón chân kêu bớ họ nguồn
Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên”
(Hò khoan Quảng Nam)
Nhưng có lẽ, sâu sắc và phổ biến nhất vẫn là những câu hò mang đậm tính chân thực, giản dị mà thắm đượm tình nghĩa của những người thân trong gia đình, nơi chất chứa bao nhiêu kỉ niệm của tuổi ấu thơ, chan chứa yêu thương, để rồi, mỗi khi đi xa quê ai cũng bịn rịn một tình cảm khó nói nên lời:
“Sông tôi chẳng có thuyền bóng thuyền
Mong gì là gì hứng gió những miền khơi miền khơi
Tủi long sông lắm thuyền ơi…
Đừng chê là chê thôn nhỏ hàm ờ nơi phố phường”
(Hò khoan Quảng Nam)
Hay tình cảm chân thành, trong sáng và thuỷ chung trong tình yêu của những đôi trai gái đôi lúc cũng không thoát khỏi lời giãi bày:
“Anh đi buôn em cũng đi buôn
Em ngồi em nghỉ đầu truông một mình
Anh đi ngang nghiêng nón làm thinh
Em kêu, em hỏi:
Tâm tình bất biến
Tương kiến nghiêm phong
(Lòng dạ không đổi thay, gặp nhau nghiêm chỉnh, đứng đắn)”
(Hò khoan Quảng Nam)
Đó chính là hình ảnh của một con người xứ Quảng luôn mở lòng mình để bộc lộ tâm tư tình cảm qua từng điệu Hò, câu hát như là tình yêu đối với quê hương qua niềm tự hào và sự lạc quan yêu đời đến tính chân thực, khôi hài, trào phúng về cuộc sống của người dân.
Tính chân thực, khôi hài, trào phúng được thể hiện qua những ngôn từ ví von bóng bẩy, nhẹ nhàng như để che giấu bớt ý nghĩa dung tục bộc lộ trong những điệu hò nhằm hé lộ tính chân thực trong cuộc sống như:
“Quần ống cao, ống thấp
Dây lưng, mối ngắn mối dài
Quảng Nam, Bình Định còn khối người tài hơn anh
Muốn cho lúa tốt hơn anh (cỏ tranh)
Kiếm chỗ mô nương tựa, chợ hạng anh chẳng thiếu gì.”
(Hò khoan Quảng Nam)
Hay trong tình yêu đôi lứa cũng vậy, dí dõm nhưng không kém phần thông minh, vẫn cười thoải với gợi ý trêu đùa:
“Trèo lên trên rẫy khoai lang,
Chẻ tre đan sịa cho nàng phơi khoai,
Ngồi buồn xe chỉ uốn cần,
Chỉ xe chưa đặng, cá lần ra khơi.”
(Hò ba lý Quảng Nam)
Lối trào phúng không chỉ về các mối quan hệ xã hội, mà ngay cả trong tư tưởng đạo hiếu - đạo lớn nhất của con người, nhưng dưới con mắt sắc sảo của người nghệ sĩ bình dân cũng bị phanh phui:
“Miệng anh cười, mắt anh khóc,
Anh bước ra trường học nghĩ tới mẹ cha
Cha già, mẹ yếu, vợ lại có thai
Lỡ bong hoa hường nở nhụy biết cậy ai bây giờ?”
(Hò khoan Quảng Nam)
Từ tính khôi hài, trào phúng đã góp phần định hình nên tính chân thực của cuộc sống theo cách xưng hô khá tự nhiên: vừa thắm thiết nghĩa tình, lại vừa ẩn chứa một triết lý nhân sinh sâu sắc:
“Nói ra cô bác đừng cười
Để cho tôi bắt một người áo đen
Áo đen tra nút áo đen
Tôi hò với người lạ, chớ người quen không hò.”
(Hò chèo thuyền Quảng Nam)
Thậy vậy, thông qua điệu Hò trên sông Thu Bồn đã phần nào giúp mỗi chúng ta hiểu thêm về vùng đất và con người xứ Quảng. Đó chính là vùng đất với địa thế cắm sâu vào giữa hai khối núi Hải Vân và Ngọk Linh như một cái nêm lớn; địa hình rừng núi, đồng bằng và biển đan cài vào nhau trong một không gian địa lí nhỏ hẹp; sông ngắn, dốc, khúc khuỷu và có xu hướng mở rộng về phía đông. Đó chính là tính cách ăn cục, nói hòn, tấm lòng rộng rãi, bao dung, không che đậy, giấu giếm, ít quanh co, ít lí sự và không rào trước đón sau. Từ đó, đã tạo nên cách phát âm trong giai điệu và tiết tấu mang tính “ngũ cung” riêng so với các điệu hò khác, thể hiện nét u uẩn sâu xa, man mác bâng khuâng, đời sống văn hoá tinh thần phong phú qua các làn điệu hò: Hò khoan, Hò chèo thuyền (ghe), Hò mái nhì, Hò giã gạo, Hò ba lý, Hò kéo vải.
Hò trên sông Thu Bồn hay là vậy, hấp dẫn là vậy, nhưng hiện nay đang đứng trước nguy cơ bị mai mọt và thất truyền. Việc phát huy, gìn giữ và bảo tồn loại hình văn nghệ bình dân này cần phải được quan tâm hơn bao giờ hết, cần phải có những biện pháp mang tính lâu dài và bền vững. Tôi thiết nghĩ việc khai thác Hò sông Thu Bồn vào hoạt động du lịch là một hướng đi góp phần không ngừng tuyên truyền quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam thông qua hình thức âm nhạc cổ truyền của dân tộc, thúc đẩy việc thu hút khách du lịch, phát triển của một thị trường du lịch đầy tiềm năng và triển vọng như Việt Nam.