NHÀ THƠ TÔ KIỀU NGÂN
QUA ĐỜI TẠI SAIGON
TIỂU SỬ
Lê Mộng Ngân tức Tô Kiều Ngân sinh năm 1926 tại Huế. Qua đời ngày 20 tháng 10 năm 2012 tại Saigon, hưởng thọ 86 tuổi. Tuổi trẻ của ông được nuôi dưỡng trong bầu không khí trang nghiêm cổ kính của thành phố buồn, thành phố của những dấu tích xa xưa, của bao nhiêu triều đại đã hưng phế, nay chỉ còn trơ lại một nội thành với những lăng tẩm u trầm, một giòng sông Hương “Nông chờ” tháng năm lạnh lùng trôi qua, biểu tượng niềm riêng, nỗi quạnh hiu của người dân xứ Huế.
Thuở còn cắp sách tới trường, Tô Kiều Ngân đã sớm tỏ có chất nghệ sĩ luân lưu trong huyết quản. Trò Ngân thường trốn học, đi chơi đó đây với cây sáo trúc không mấy khi rời tay.
Rồi chiến tranh Pháp Việt bùng nổ toàn diện, Tô Kiều Ngân cũng nghe theo tiếng gọi kêu khẩn thiết của tổ quốc, khăn gói lên đường tham gia kháng chiến chống Pháp. Ông được sung vào ban kịch của Vệ quốc đoàn khu IV.
Một ba lô, một ống sáo, ông theo đoàn kịch đi lưu diễn khắp nơi, lang thang suốt từ Huế đến Thanh Hóa. Ông kể:
"Vì tính cách lưu diễn, nên chúng tôi đi hết nơi này tới nơi khác. Có cái thú là những buổi chiều đi qua những làng mạc, những cánh đồng ruộng lúa bát ngát, tôi say sưa thổi sáo, những bản hùng ca của Phạm Duy, lòng cảm thấy lâng lâng, chân bước nhẹ nhõm vô cùng. Cảnh đó, bây giờ không còn được hưởng nữa."
Ở ban kịch liên khu IV được một thời gian, ông xin tình nguyện chiến đấu tại mặt trận Đèo Hải Vân. Sau đó Tô kiều Ngân bị Pháp bắt năm 1948.
Sau 3 tháng bị cầm tù, ông được thả về. Lúc đó vào khoảng cuối năm 1948.
Từ đó, Tô Kiều Ngân bắt đầu hoạt động văn nghệ. Tác phẩm đầu tiên của ông là kịch thơ 4 màn “Ngã Ba Đường”, do ban kịch SÔNG Ô trình diễn trên sân khấu Huế. Tiền bản quyền tác giả đã giúp họ Tô mua được một chiếc xe đạp. Việc làm này đã chứng tỏ Tô Kiều Ngân là người rất căn cơ, không bừa bãi, thả lỏng, bốc đồng như hầu hết các nghệ sĩ khác. Ông là người biết điều hòa hai cuộc sống Nghệ sĩ và Thực tế.
Năm 1950 ông gia nhập quân đội. Năm 1952 ông đưa gia đình vào Nam. Tại đây, ông lần lượt viết cho các báo ĐỜI MỚI, NGƯỜI SỐNG MỚI, đồng thời ông cũng cộng tác với một vài tờ báo xuất bản tại Hà Nội như HỒ GƯƠM, GIÁC NGỘ…
Năm 1955 ông cùng Đinh Hùng và vài anh em nữa thành lập ban thi văn Tao Đàn trên đài phát thanh Sàigòn. Sau đó ông cùng Thanh Nam chủ trương tuần báo Thẩm Mỹ, rồi cộng tác với Sáng tạo, Văn Nghệ Tiền Phong, Tiểu Thuyết Tuần San v.v…
Về mặt quân đội, có thời, ông làm chủ bút tờ Quân Đội bán nguyệt san (do Nha C.T.T.L . ấn hành) và hiện tại ông chủ trương biên tập nguyệt san “Văn Nghệ Chiến Sĩ” của QLVNCH. Ông thuộc loại viết nhanh và rất dễ dàng. Không kể ngày hay đêm, không cần bàn, ghế, bên máy in ông cũng có thể viết được. Ông nói:
“Tôi viết theo hứng”.
TÔ KIỀU NGÂN VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC
Một buổi sáng chủ nhật, tôi lại thăm ông ở nhà riêng đường Phan Văn Trị. Vừa dựng xe, tôi đã nhìn thấy ông trong bộ pyjama sọc đang lúi húi trước giá sách kê sát lối ra vào.
Thấy tôi, ông bỏ dở công việc, đứng dậy với nụ cười cùng ánh mắt reo vui, ông bắt tay tôi.
- Vào chơi Du Tử Lê.
Lần đầu tiên bước vào nhà Tô Kiều Ngân, tôi bỡ ngỡ, ngồi xuống chiếc ghế salon nệm xanh.
Một lát, sau vài câu xã giao thông thường, tôi bắt đầu quan sát “tổ ấm” họ Tô. Căn phòng khách tuy hơi nhỏ nhưng được bày biện thật gọn gàng và khéo léo. Chứng tỏ chủ nhân là một tay có mắt mỹ thuật thuộc vào hạng khá!
Trên tường trước mắt tôi, một bài thơ Đường do ông dịch được đóng khung kính treo cẩn thận. Trên bức tường đối diện, tôi thấy treo một bức tranh của Nguyễn Khắc Vinh vẽ ngựa và cây. Ngay cạnh bộ salon là chiếc máy Pick-up loại Hifi. Phía trên tường là một bức tranh vẽ cảnh sông nước thuyền câu của chính ông. Ở góc trái phía ngoài cùng căn phòng, kê một chiếc giường sắt nhỏ bọc nệm. Cảnh trí này đủ nói lên cuộc sống đầy đủ gọn ghẽ, kín đáo của họ Tô.
Đang mải nghĩ ngơi về những gì thấy trong “phòng văn” chợt Tô Kiều Ngân hỏi tôi:
- Nghe nói “Toi” đang viết một cuốn sách gì đó phải không?
- Vâng. Tôi dự tính ghi lại một số nhận xét về cuộc sống của năm ba người quen biết. Sự lựa chọn của tôi hoàn toàn theo chủ quan. Trong số người đó có anh. Nên hôm nay lại anh, xin ít tài liệu…
- “Toi” cứ viết về mấy người kia cho xong đi đã, moi sẽ đưa tài liệu sau.
- Có. Tôi viết đã gần xong kể cả anh.
Tô Kiều Ngân cười nheo đuôi mắt.
Câu chuyện văn nghệ được trao đổi trong không khí chân thành cởi mở. Tô Kiều Ngân cho biết ông đang viết một tập truyện dài nhưng phải chờ đến Hòa Bình mới in ra được.
Lúc ra về, bên tai tôi còn vẳng lời tâm sự (?) Lời than vãn hay lời ăn năn của một người nhìn về quá khứ: rùng mình (?) - hướng tới tương lai: e ngại (?)
“… Ngày xưa, tôi viết dễ dàng bao nhiêu thì bây giờ việc viết lách đối với tôi trở nên khó khăn bấy nhiêu”
Phải chăng con người mang tên Tô kiều Ngân hôm nay, không còn là Tô Kiều Ngân của những ngày hôm qua nữa? Khi một người tự nhìn nhận việc viết lách trở nên khó khăn, hệ trọng, vì không thể viết những giòng phù phiếm, vô trách nhiệm; thì ít nhất trong thâm tâm họ, trong thái độ, quan niệm đã có phần biến thái, lột xác.
Ở Tô Kiều Ngân, tôi nghĩ có thể hôm nay ông đã nhìn về một hướng khác xưa… Bỏ cái thực ôm cái hư, hay bỏ cái hư ôm cái thực, giữa cuộc đời hư hư, thực thực này. Đó chỉ là nhận xét của cá nhân tôi.
Chúng ta vẫn cần tới thời gian vì chỉ có thời gian mới đem lại cho chúng ta một câu trả lời cuối cùng mà thôi!
PHỤ LỤC
Nhắc đến Tô Kiều Ngân, thường người ta chỉ biết ông với tư cách nhà văn nhiều hơn là một nhà thơ, và người ta lại càng biết ít hơn nữa tính chất lãng mạn, tình cảm trong thơ ông.
Sở dĩ có thể, bởi vì ông rất ít đăng thơ tình cảm, hầu như không đăng bao giờ. Ông quan niệm theo kiểu một T.T.KH. ngày xưa: “Chỉ có ba người được đọc riêng” (1) chứ không muốn rao bán “cho khắp người đời thóc mách xem”. (2)Ở đây, bằng tất cả tài nghệ uốn ba tấc lưỡi, rào đón nỉ non tâm sự, kẻ viết mới lấy được dăm bài thuộc loại ‘chuyền tay”… - lục đăng ở đây, để độc giả thấy rằng mặc dù có trên dưới 15 năm “lính” nhưng bản chất “hào hoa”, “đa tình”, của họ Tô vẫn có những giây phút bừng dậy, sôi động, đắm đuối. - Hay đó là cố tật của đa số những ai thuộc giòng họ Thơ - thích thương vay, khóc mướn - thích thương nhớ hão huyền, mơ tưởng không đâu về những bóng hình chưa đến đã rời xa, chưa hiện đã tan biến…
Trong một buổi tối đi chơi với ông, có thêm Chinh Yên, ông nói: “Moi không hiểu tại sao cứ mỗi khi uống rượu hơi say một chút là nhớ người ấy - mặc dù đã trên tám năm yêu nhau trong ngang trái, bế tắc, người ấy vẫn không hề nghĩ tới chuyện đi lấy chồng…”
Đường ra ngoại ô tối thêm và hẹp dần. Giữa tiếng máy nổ đều đều của chiếc Simca cũ và bóng đêm tràn đầy lòng xe, tôi không thể ghi nhận khuôn mặt ông lúc đó ra sao. Nhưng tôi nghe rõ một tiếng thở dài nhè nhẹ.
Gió thật lạnh. Tô Kiều Ngân hát nho nhỏ (giọng trầm và buồn bài Sérénade của Schubert. Chinh Yên thiếp trong cơn nóng lạnh đột ngột - tôi nhớ đến một người - và tiếng hát ngân dài “… bóng tối buồn không mầu”