TINH THẦN NGUYỄN KHOA NAM
Cựu Y Sĩ Thiếu Tá Nhảy Dù Trần Văn Tính
Trong quân sử Hoa Kỳ và VNCH, có ghi một chiến tích lừng danh trên ngọn đồi chiến lược 1416 trong cuộc Hành Quân Phối Hợp Việt-Mỹ được đặt tên là Darkto tại tỉnh Kontum vào tháng 10 năm 1966. Song song hành quân với Lữ Đoàn 173 Nhảy Dù của Hoa Kỳ, Mũ Đỏ Trung Tá Nguyễn Khoa Nam chỉ huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù VN gồm các TĐ3, TĐ6 và TĐ8ND. Địch có một Trung Đoàn chạm trán TĐ1/LĐ Hoa Kỳ và một Trung Đoàn khác đánh với TĐ8ND Việt.
Kết quả: Địch bỏ lại hơn 300 xác chết; phía ta có khoảng 50 tử thương và bị thương. Riêng phía HK, có một số mất tích rất khó hiểu, có lẽ vì hết đạn. Tổng Thống Hoa Kỳ L.B. Johnson đã tặng huy chương Silver Star cho Mũ Đỏ Trung Tá Nguyễn Khoa Nam và huy chương Đơn Vị Chiến Thắng cho TĐ8ND.
Do gương can trường tại chiến trận, tài chỉ huy khéo léo và tính cẩn trọng cố hữu khi chuẩn bị hành quân cũng như khi trực tiếp điều động chỉ huy TĐ8ND của Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam, bên ta thắng lớn, ít thương vong và, đặc biệt khác với phía Hoa Kỳ, chúng ta không có ai mất tích. Cho đến nay, các vị tướng lãnh Nhảy Dù Hoa Kỳ vẫn còn ca tụng chiến thắng Darkto đồi 1416 và dùng làm tài liệu học tập quân sự.
Với Hùng-Tài và Trí-Dũng đặc biệt ở đồi 1416 cũng như được thăng đến cấp tướng sau rất nhiều chiến công hiển hách khác, câu hỏi được đặt ra:
Mũ Đỏ Nguyễn Khoa Nam:
(A) Người Từ Đâu Tới?
(B) Người Để Lại Những Gì? và
(C) Người Đi Về Đâu?
A. Nguyễn Khoa Nam đến từ lòng đất Mẹ VN như tất cả chúng tạ Người là một đứa con của đại dân Tộc Việt, gia tộc Nguyễn Khoa, một gia tộc với nhiều Văn Thần-Võ Tướng mở mang bờ cõi và phục vụ an dân, tận từ thời Chúa Nguyễn Hoàng vượt Đèo Ngang, vâng theo câu "Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân" của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Dân gian hay hát:
Thương em, anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ Phá Tam Giang
Phá Tam Giang đày rày đã cạn
Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm.
Nội Tán đó là Nội Tán Đại Thần Nguyễn Khoa Đăng với công dẹp tan giặc cướp bình định an dân vùng truông cuối làng Hồ Xá và choa đào xả thêm nước Phá Tam Giang ra cửa biển Thuận An ở miền Trung. Tại miền Nam, còn có nhiều chùa ghi lại công đức của Tổng Trấn Nam Kỳ Nguyễn Khoa Thuyên, và chúng ta có vị Đại sứ VNCH đầu tiên tại Thái lan là cụ Nguyễn Khoa Toàn, người đã đặt nền tảng ngoại giao giữa hai quốc gia mà phúc lợi còn tồn tại đến ngày naỵ
Năm 1953, thanh niên Nguyễn Khoa Nam là, tôi xin mượn thơ bà Đoàn Thị Điểm, là:
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Cùng với những sinh viên ưu tú gia nhập trường Võ Bị Thủ Đức trong thời kỳ phát triển Quân Lực do biến chuyển thời cuộc thực thi Ước Kết Atlantic Chrter ngày 14-9-1941; theo đó Thủ Tướng Anh Churchill đã phải đồng ý với Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt là, nếu được Mỹ tham chiến giúp Anh-Pháp thì sau khi thắng Thế Chiến II, phải để cho tất cả mọi Quốc Gia độc lập tự do theo tinh thần Dân Tộc Tự Quyết. Tất nhiên là Tự Trị với Quân Lực riêng của mình, hầu Tư Bản Hoa Kỳ có thị trường mở rộng trên thế giới và được mua bán tài nguyên chiến lược trực tiếp, khỏi phải qua các điều kiện thương mại bất lợi hay luật lệ khắc khe, có khi cấm đoán, của những nước chủ thuộc địa cũ.
B. Đến từ lòng đất Mẹ Việt Nam, sinh ra từ gia tộc Nguyễn Khoa, xuất thân từ Quân Trường Võ Khoa Thủ Đức, tôi luyện trong Binh Chủng Nhảy Dù, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã để lại gì cho thế hệ tương laỉ Tuổi trẻ của chúng ta có thể học được gì?
Với tư cách Y sĩ Trưởng Sư Đoàn 7 BB, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Quân Y, phục vụ cạnh Sáu lẽ Một (601 là Danh hiệu Truyền Tin Tướng Nguyễn Khoa Nam tự chọn cho mình ở Sư Đoàn 7), chúng tôi xin ghi lại 7 "Kỷ Niệm" sáng soi cho tuổi trẻ.
Thứ I:
Hành quân ở cùng Đồng Tháp, Đại Tá tỉnh trưởng thỉnh cầu Thiếu Tướng Tư Lệnh ở tại dinh tỉnh trưởng, đầy đủ tiện nghi và an toàn. Tướng Nam từ chối và cho Công Binh kéo một thùng sắt Conex chất bao cát chung quanh, làm chỗ ở sát cạnh Trung Tâm Hành Quân. Ăn uống đơn giản với Cơm Câu Lạc Bộ lấy về. Cả tại Hậu-Cứ Sư Đoàn, cũng không có đầu bếp riêng: Đức tính sống đơn giản, bình dị, không hề xa xỉ này, chúng ta có cố gắng theo không?
Thứ II:
Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB, rồi Tư Lệnh Quân Đoàn IV kiêm Quân Khu 4, một vùng giàu có sung úc vào bậc nhất nước Việt Nam, nhưng tướng Nam không tậu nhà riêng, không có xe hơi riêng, không tơ hào tài sản, chẳng bao giờ tích lủy của cải riêng tư: Đức tính Thanh Liên, Trong Sạch giữa môi trường đầy cám dỗ, chúng ta có học được không?
Thứ III:
Tại căn cứ Đồng Tâm, hậu cứ sư đoàn 7BB, cho xây một hang đá Đức Mẹ khổng lồ, nhưng trên bàn thờ cạnh đầu giường ngủ, lại có một tượng Phật nhỏ, rồi hàng năm đến ngày Tết của người Miên, thì nhắc nhở các Đơn Vị Trưởng chăm lo cho lính gốc Miên nghỉ lễ ăn Tết: Gương tôn trọng mọi Tín Ngưỡng, thương yêu mọi sắc dân, không phân biệt màu da hay chủng tộc, chúng ta có tránh thiên vị Tôn giáo mình, hài hòa trải tình thương như thế không?
Thứ IV:
Từ Thiếu Úy Trung Đội Trưởng đến Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù, lên đến Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn, rồi Tư Lệnh Quân Đoàn kiêm Tư Lệnh Quân Khu, oai chấn cả một phần tư Quốc Gia nhưng Tướng Nam, ngoại trừ khi hô trước hàng quân, chưa hề to tiếng hay cải vả với ai: Đức tính hiền hòa, khiêm cung trang nhã, khi trong tay đầy quyền hành, chúng ta có rèn nhân cách và theo được phần nào không?
Thứ V:
Gần như quanh năm suốt tháng, từ 6 giờ sáng đến 9 giờ tối, lúc nào cũng trang nghiêm trong quân phục và giầy trận, uy nghi ở Trung Tâm Hành Quân hay Phòng Thuyết Trình. Ra ngoài lúc nào cũng nón sắt, đi xe quân độị Luôn luôn cẩn trọng, quý sinh mạng và tài sản của từng người lính, từng người dân. Hy sinh phục vụ liên tục đến nỗi không còn thì giờ riêng để lập gia đình, như tự áp dụng cho chính mình câu thơ của Hồng Hà nữ sĩ: "Phép công là trọng, niềm tây sá nào": Đức tính nghiêm túc, mẩn cán, tận tụy phục vụ, hy sinh cao độ và thương yêu quân dân đó, chúng ta có theo được phần nào không?
Thứ VI:
Chỉ huy ít hao quân, ít thiệt hại cho dân, nhưng thành công vì lúc nào cũng chuẩn bị chu đáo, cẩn trọng điều quân và theo dõi sát tình hình từng ngày, từng giờ; lại tìm hiểu tài năng đặc biệt của từng cá nhân, từng đơn vị và xử dụng chính xác khả năng của thuộc cấp: Tài tiên liệu, chuẩn bị cho lúc khó khăn, tính cẩn trọng, chu đáo và khả năng dùng người này, chúng ta có cố gắng học, theo gương và áp dụng được phần nào không?
Và thứ VII:
Ba mươi tháng Tư, 75: Lệnh đầu hàng. Tướng Nguyễn Khoa Nam, một Quân Nhân gương mẫu, với tánh chín chắn, lòng can đảm cố hữu, đã có quyết định phi thường: Bất Khuất, không khuất phục bạo tàn. Hy sinh: Tuẫn Tiết. "Thời đã thế, thế thời phải thế! NHƯNG ANH HÙNG TỬ, KHÍ HÀO HÙNG NÀO TỬ!"
Trong niềm thương tiếc vô biên, từ tâm khảm chúng tôi hiện ra một gương sáng chói ngờị Đó là gương Đức Độ - Thanh Liên - Hùng Tài - Trí Dũng - Mẩn Cán - Hy Sinh - Bất Khuất.
Kính thưa quý vị:
Chúng ta hãy tôn xưng Dũng Khí và Tài Đức của vị Anh hùng Vị Quốc Vong Thân là: Tinh Thần Nguyễn Khoa Nam". Tinh Thần Nguyễn Khoa Nam sẽ là "nhân tố đạo học" nẩy mầm trong thế hệ trẻ Việt Nam, góp phần đào tạo những con ngươi xứng đáng là NGƯỜI, tạo dựng những nhà lãnh đạo Đức Độ, Thanh Liêm, Hùng Tài, Trí Dũng, Mẩn Cán, Hy Sinh và Bất Khuất của một nước Việt Nam tươi sáng.
C. Người đi về đâu? Tướng Nguyễn Khoa Nam chết không được phủ lá cờ, không có chút lễ nghi Quân táng, không có những tiếng súng chào vang vọng, nhưng:
- Người đi vào Lịch Sử oai hùng của Dân Tộc Việt
- Người đã trở về lòng Đất Mẹ Quê Hương và gia phả tộc Nguyễn Khoa.
Chúng tôi xin ghi khắc:
Trí Dũng Tài Cao Trời Việt;
Hùng Tài Đức Trọng Tộc Nguyễn Khoa
Kính thưa quý vị: Người đã đi sâu vào tim của mỗi người, mọi nơi với niềm mến thương và kính phục.
Hình ảnh Tướng Nam đã ngự vào tâm khảm của chúng ta, của thế hệ trẻ, của Quân Dân VNCH kiên cường, bất diệt bởi: Tinh Thần "Nguyễn Khoa Nam"
Trân trọng kính chào quý vị;
Trần Văn Tính.
(Trên đây là phần phát biểu của Bác Sĩ Trần Văn Tính trong lễ giỗ Tướng Nguyễn Khoa Nam tại Houston, tháng 5, 2008)