"HẠT GIỐNG TỪ BI" CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
BS. DƯƠNG MINH ĐƯỜNG.
Trưa hôm nay, một ngày thứ Bảy đầu mùa Xuân với bầu trời xanh trong vắt và ấm áp, vợ chồng tôi được may mắn ngồi trong vận động trường lộ thiên Qwest, thành phố Ngọc Bích, với hơn 50 ngàn dân địa phương để nghe vị Phật sống - Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 - diễn thuyết về đề tài "Hạt Giống Từ Bi" theo lời mời của tổ chức Seeds of Compassion.
Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi có dịp nhìn tận mắt, nghe tận tai từ một vị lãnh đạo tinh thần của toàn thể giới nói chung và Phật Giáo nói riêng mà bao nhiêu năm nay chỉ biết Ngài qua sách vở báo chí truyền hình. Đây thật là một vinh dự nên tôi thấy có bổn phận tường thuật được phần nào diễn biến và ý nghĩa của cuộc nói chuyện này.
Qua phần giới thiệu tiểu sử của Ngài bởi vị Thống Đốc Tiểu Bang, chúng tôi được biết Ngài đã từng đoạt giải Nobel Hòa Bình và Medal of Honor, huy chương cao quí nhất của thế giới và của Mỹ. Ngài đã được toàn thể cử tọa đồng thanh đứng lên chào đón trong tiếng chuông trống và tiếng vỗ tay tán thưởng tưởng không bao giờ dứt trong hơn 5 phút đồng hồ. Ngài cung kính chấp hai tay cúi rạp người đáp lễ, miệng không ngớt lời, "Thank you, thank you..." và ra dấu cho mọi người ngưng vỗ tay để ngồi xuống. Cử chỉ của Ngài thật khiêm nhường đáng kính như lời bà thống đốc giới thiệu: "A deeply humble man of peace".
Trong phần nói chuyện kéo dài 45 phút, Ngài nhấn mạnh nhiều lần về ý nghĩa "Đem lòng từ bi nhân ái và tinh thần không bạo động để xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn trong thế kỷ thứ 21 này". Thế kỷ 20 qua đi để lại những cuộc chiến tranh tàn khốc cho cả thế giới. Cuộc chiến tranh lạnh giữa 2 khối thù nghịch dẫn đến sự chia xẻ thôn tính nhiều quốc gia trên thế giới - Ngài tránh không nói đến xứ Tây Tạng - thì nay qua thế kỷ mới chiến tranh không phải là con đường giải quyết các bất đồng mà mọi dị biệt phải được giải quyết qua đối thoại trực tiếp. Nay là "Thế kỷ của đối thoại" (The century of dialogue). Để đạt mục đích đó chúng ta phải bắt đầu gieo hạt giống từ bi nhân ái cho những em bé từ lúc sinh ra đời đến lúc lớn lên đi học ở trường để khi ra trường đời, tư tưởng các em thấm đầy tình thương yêu nhân loại, giúp đỡ lẫn nhau như là nguồn gốc của hạnh phúc (compassion for each other, 6 billions human beings are the source of happiness). Ngài nắm tay vị nữ thống đốc giơ cao lên mà nói rằng thế giới chắc cần có nhiều nhà lãnh đạo đàn bà vì đàn bà có nhiều tử bi nhân ái hơn đàn ông - câu này Hillary nghe chắc khoái lắm - làm quí phụ nữ trong vận động trường vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt còn Ngài thì cười giòn giã gây nên một bầu không khí rất vui vẻ thân mật. Ngài năm nay đã 72 tuổi mà giọng nói vẫn còn mạnh mẽ hùng hồn, cộng thêm tiếng cười giòn trên gương mặt phúc hậu, đã chinh phục cảm tình của toàn thể cử tọa. Họ đã liên tục cắt đứt câu chuyện của Ngài nhiều lần để vỗ tay tán thưởng.
Sau phần nói chuyện xem chừng quá ngắn là phần trả lời một số câu hỏi được đài truyền hình lựa ra trong số hơn 100 câu hỏi, đa số rất khó trả lời cho một vị truyền đạo ngoại quốc. Dù hiểu biết Anh ngữ khá thông thạo và có người thông dịch chuyển dịch, đôi lúc Ngài cũng phải khựng lại suy nghĩ vài phút trước khi trả lời. Ngài tránh né bằng mọi cách không trả lời các câu hỏi liên quan đến tình hình chính trị căng thẳng hiện nay giữa Trung Cộng và Tây Tạng. Khi được hỏi làm sao thuyết phục được các vị lãnh đạo trên thế giới ngồi lại đối thoại để giải quyết các khủng hoảng thế giới, hủy bỏ vũ khí nguyên tử..., câu trả lời gọn gàng giản dị của Ngài là "I don't know". Trả lời câu hỏi về những hiểm họa cho thế kỷ 21, Ngài nhấn mạnh đến Global Warming và Populations, chắc là Ngài muốn nói đến sự bành trướng nhân số của Trung Cộng!
Trên đường đi bộ về phòng mạch, tôi miên man suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của Ngài cho thế hệ mai sau và cảm thông được sự bất lực của Ngài qua gần nửa thế kỷ để đi tìm sự tự trị cho dân tộc Tây Tạng hầu không bị đồng hóa bởi dân Hán. Tôi thấy tủi thân cho các dân tộc Ba Lan, Tây Tạng, Việt Nam..., nằm trên ngã ba đường (crossroad) của các cường quốc luôn luôn mang ý định thôn tính đè bẹp xứ láng giềng. Xứ Ba Lan vì nằm trên đường thôn tính Nga Sô của Đức Quốc Xã mà là nạn nhân đầu tiên của trận thế chiến thứ 2, rồi sau đó khi Hồng Quân phản công Đức Quốc Xã, lại chính dân Ba Lan bị "rob" lần thứ hai dưới gót giày của Cộng Sản Nga và trở thành xứ Cộng Sản chư hầu. Thế giới chắc bùi ngùi tiếc thương cho dân Ba Lan nên bầu Đức Giáo Hoàng John Paul gốc Ba Lan vào chức vụ lãnh đạo tinh thần rồi nhờ vào uy tín hô hào ủng hộ triệt để của Ngài mà dân Ba Lan mới nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Lech Walesa làm cuộc cách mạng giải thoát Ba Lan ra khỏi khối CS, thành xứ dân chủ. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng ở vào hoàn cảnh như Đức Giáo Hoàng, được sự ủng hộ của toàn thế giới nhưng cho đến giờ vẫn chưa đem lại được một lợi thế nào cho dân Tây Tạng vì kẻ thù quá mạnh, quá tàn bạo. Hay vì dân Tây Tạng chưa có được một lãnh tụ cỡ Lech Walesa? Hình như gánh nặng đè lên trên hai vai Ngài hơn 50 năm nay, quá sức chịu đựng cho một người thấm nhuần tư tưởng vị tha bác ái của Phật Giáo mà phải đối đầu với một láng giềng cứng đầu dễ ghét. Chiếc giày xỏ vào quá bự cho bàn chân Ngài trên đoạn đường chông gai bao năm qua.
Nhìn về lịch sử Việt Nam, tổ tiên chúng ta vì cũng khổ sở điêu đứng hàng ngàn năm bởi người láng giềng khó ưa đó mà phải bỏ công lao mồ hôi nước mắt để tìm mọi cách tiến về phương Nam lánh nạn. Vậy mà đâu có thoát được vòng tay hắc ám đó bao lâu. Vụ thôn tính Hoàng Sa-Trường Sa có phải là bước đầu của họ để tìm cớ xâm lăng trong tương lai hay không? Liệu Đức Đạt Lai Lạt Ma trong quãng đời còn lại của Ngài có giúp ích được gì cho hai dân tộc Tây Tạng và Việt Nam sống trong thanh bình tự trị như ước nguyện của Ngài nói lên hôm nay không? Ai sẽ cho tôi câu trả lời?
Thành phố Ngọc Bích Seattle
12 tháng 4, 2008