NHÂN DUYÊN SINH
ĐẠT LAI LẠT MA
Khi bạn hiểu được sự quan trọng của liên hệ nhân quả, thì bạn sẽ biết quý trọng giáo pháp Tứ Điệu Đế.
Toàn bộ giáo pháp Tứ Diệu Đế căn cứ vào luật nhân quả. Căn bản này được khai triển thêm {rong giáo lý Thập nhị nhân duyên. Trong đó, đức Phật dạy rằng khi có nhân duyên này thì có kết quả kia...vì có Vô Minh nên có Hành Nghiệp. Các bạn nhận thấy có ba quan điểm:
1. Vì cái này có nên cái kia có
2. Vì nhân duyên được phát sanh nên kết quả được tạo ra
3. Vì có vô minh nên có hành nghiệp.
Theo quan điểm đầu tiên, khi nhân duyên đầy đủ là sự việc biểu hiện ra. Mọi sự đều do duyên sinh, không có năng lực nào (như Thượng đế chẳng hạn) độc lập phía ngoài có thể tạo ra chúng.
Quan điểm thứ hai nói tới các nhân duyên sinh ra những kết quả, và chính các quả đó cũng được tạo thành nhờ các duyên khác. Nếu chúng chỉ là các nhân duyên từ muôn đời với tự lánh thường hằng bất biến, thì chúng không thể là kết quả của các duyên khác được.
Quan điểm thứ ba nói tới đặc tính khác của thuyết duyên sinh: Giữa nhân và quả, có một
số tương quan đặc biệt. Nhân quả phải tương ứng, xứng hợp với nhau chứ không phải chúng không có quy luật.
Khi nói vô minh sinh ra hành nghiệp, đức Phật muốn dạy cho ta hiểu "ai là người tạo ra nghiệp?" Đó chính là ta, vì hành động với cái tâm mê muội mà ta tạo ra con đường dẫn ta
xuống dốc. Không ai muốn khổ, nên khi hành động làm hại chính mình, đó là vì ta vô minh mà thôi.
Mười hai nhân duyên được chia làm ba loại: trước hết là các cảm thọ và tư tưởng, sau tới các hành nghiệp và kết quả của chúng, và cuối cùng là khổ đau. Bài học chính của đức Phật là: không ai muốn đau khổ, nhưng nó là hậu quả của vô minh.
Đức Phật không nói đau khổ là kết quả của các thức, vì như thế khi muốn giải thoát khỏi
khổ đau thì ta cần chấm dứt dòng tâm thức hay sao? Chúng ta rút ra được bài học từ đó, là khổ đau có gốc rễ từ các cảm nghĩ tiêu cực, và ta có thể chấm dứt đau khổ.
Trạng thái vô minh kia có thể xả bỏ đi được khi ta có trí tuệ nhận biết được bản chất của
thực tại. Chúng ta thấy rằng, 12 nhân duyên đưa con người vào vòng sinh tử đều liên quan chặt chẽ với nhau.
Nếu chúng ta áp dụng nguyên lý tương duyên tương sinh này vào các nhận thức về thực tại trong đời sống hàng ngày, chúng ta có thể hiểu được chân lý thực tại. Chẳng hạn ta sẽ biết trân trọng sự liên quan chặt chẽ giữa phúc lơi của mình và của người. Ta sẽ hiểu vì sao mà đời sống an lành của con người lại liên quan tới sự an bình của các loài vật trên trái đất.
Tương tự như thế chúng ta cũng sẽ hiểu được bản thể của thiên nhiên và biết quý trọng mối tương quan giữa con người cùng môi sinh; hiểu được hiện tại và tương lai vv... Chúng ta sẽ có khả năng nhìn vào thực tại như một tổng thể và hiểu được ý nghĩa của mọi liên hệ trong đó.
Tóm lại chúng ta có thể hiểu rằng không có những nhân nguyên độc lập của hạnh phúc cá nhân. Hạnh phúc tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Ta có thể kết luận: nếu bạn muốn được sung sướng hơn trong tương lai, bạn phải săn sóc tới tất cả những gì liên quan tới bạn. Cái nhìn đó theo tôi, rất hữu ích...
Trong giáo pháp Thập nhị nhân duyên, Bụt dạy: dù chúng sanh không muốn khổ đau, phiền não, nhưng vì vô minh mà họ đã tạo ra những nghiệp bất thiện, đưa tới các hậu quả xấu.
Vấn đề là: điều gì đã khiến cho con người hành động trái với ước muốn sâu xa của họ? Bụt dạy: chính những cảm thọ và tư tưởng tiêu cực như giận dữ ghen ghét, vướng mắc... đã khiến cho người ta bị mê mờ, không hiểu được chân lý.
Khi quán sát trạng thái tâm thần của những người đang sân hận, ghen tuông hay quá luyến ái, ta thấy họ đã có cái nhìn nhầm lẫn về chính họ. Họ đã không thắc mắc mà tin chắc cái Ta của họ hoàn toàn độc lập, nó là một ông chủ. Nó không phải là thân, cũng không phải là tâm, nhưng nó được coi như một cái Ngã. Và họ nắm chặt lấy Ngã, coi đó mới là mình. Từ đó, người ta vướng mắc quá nhiều vào những người họ yêu thương, và hận thù những ai mà họ cho là đang đe dọa cái Ta đó.
Tương tự như thế, khi ta quán sát những nhận thức của mình về các đối tượng gây nên sân hận hay thèm muốn, ta sẽ tưởng như chúng có tự lánh hoàn toàn độc lập. Dù không hiểu rõ được tự tánh trống rỗng của sự vật, trong đời sống hàng ngày,chúng ta cũng có khi thấy các nhận thức của mình khác xa với thực tại.
Nếu không hiểu được thực tại, thì tại sao ta lại thất vọng, phiền não ? Chúng ta luôn luôn có ảo tưởng vì những nhận thức sai lầm. Khi ảo tưởng biến mất, ta phiền não. Trong cuộc đời thường nhật, chúng ta luôn luôn nhìn thấy bề ngoài của sự vật không đi đôi với tình trạng chân thực của nó.
Chẳng hạn khi ta gặp một người và nghĩ: “Ồ đây là người mà ta đã biết từ lâu rồi” Hay khi nhìn một vật gì, ta coi đó vẫn là món đồ mình đã nhìn thấy từ hai ngày trước; đó là cách nhìn thực tại rất thô sơ. Nghĩ như thế chỉ là chồng chất một hình ảnh hay một ý tưởng có sẵn về một sự vật, lên trên bản chất thực của nó. Thật ra, con người hay vật kia đã thay đổi khá nhiều.
Sự sống rất năng động và chuyển đổi luôn luôn. Đối tượng mà ta thấy bây giờ không bao
giờ còn giống hệt vớ i đối tượng ngày hôm trước hay trước. Nhưng chúng ta có cảm tưởng
là mình đã biết đối tượng đó như trước đây đã biết, thì ta chỉ làm cái việc choàng lên thực tại kia một nhận thức cũ kỹ mà thôi.
Chúng ta đang nói tới sự khác biệt giữa nhận thức của ta về sự vật, đối với thực tại, chân lý của nó. Cũng vậy, trong ngành vật lý hiện đại, ta cũng thấy sự khác biệt giữa cái nhìn thông thường về sự vật, đối với những giải thích về thực tại của các nhà khoa học.
Từ các quan điểm trên, ta thấy rõ là chúng ta thường nhầm lẫn khi nhận diện một cá nhân nào, hay khí quán sát chính mình.
Câu hỏi là : sự nhầm lẫn đó nó lớn tới đâu? Chúng ta không thể chấp nhận ý nén cao ràng cái Ngã không hiện hữu. Vì như thế thì rất nhiều các dự án, các quan tâm và hành động của chúng ta đều vô nghĩa lý hết cả. Và thực tế, vẫn có cái Ta, nên ta mới vẫn muốn đạt tới giác ngộ để độ cho chúng sánh...
Câu hỏi thực sự phải nêu lên: Ý niệm về cái Ta, về Tự tánh, sự hiểu biết về cá nhân ta ở mức nào thì sai, ở mức nào thì đúng? Muốn ấn định cái ranh giới giữa hai nhận thức sai -đúng về cái Ta là chuyện cực kỳ khó khăn. Chính vì thế mà tại Ấn Độ có nhiều quan điểm khác nhau giữa các trường phái trong đạo Phật..