BỐN NHẬN THỨC SAI LẦM
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
TUỆ UYỂN chuyển dịch
Đức Phật đã dạy ba mươi bảy phẩm trợ đạo để đối phó với bốn nhận thức sai lầm. Nơi đây, Ngài nói về bốn lĩnh vực để quán niệm (Tứ Niệm Xứ).
*Tỉnh thức thứ nhất tuyên bố nhận thức sai lầm quan hệ đến bản chất tự nhiên của thân thể. Bản chất thật sự của thân thể là những thứ được làm nên bởi những vật liệu bất tịnh khác nhau. Khi chúng ta nghiên cứu và phản chiếu một cách gần gũi nó, chúng ta có thể thấy rằng thân thể là một bản chất bất tịnh, một bản chất vô thường. Cho dù chúng ta thẩm nghiệm bản chất thân thể trong dạng thức nguyên nhân của nó hay thực thể hiện tại của nó, chúng ta sẽ thấy rằng nó là bất tịnh, không sạch. Thí dụ, nếu chúng ta phản chiếu trên nguyên nhân của thân thể vật lý, nguyên nhân là hổn hợp của tinh cha và noản châu của mẹ.
Trong thực thể và bản chất hiện tại của nó, chúng ta có thể thẩm tra thân thể chúng ta từ đỉnh đầu đến gót chân của chúng ta, và chúng ta sẽ thấy rằng nó là bất tịnh và ô nhiễm từ trong bản chất. Nếu chúng ta nhìn vào những gì được sản sinh bởi thân thể - nước tiểu, phân, v.v... - chúng ta chỉ thấy những thứ vật chất không sạch. Do thế, trong thực tế, thân thể giống như một nhà máy sản xuất ra những vật chất ô uế. Khi bộ máy này làm việc tốt, hình dạng hay màu sắc của những thứ đến từ nó là khá tốt, nhưng nếu điều gì đấy sai lạc, nhiều thứ bất thường xảy ra. Thật sự, những thứ đắc giá nhất và đẹp đẻ nhất được tiêu thụ là được làm bằng cổ máy dơ bẩn này. Hãy suy tư theo những dòng này.
Không chỉ thế, mà thân thể cũng hoạt động như căn bản cho những thứ khổ đau xa hơn. Chúng ta sẽ thấy rằng thân thể tâm sinh vật lý được làm nên do sự kết hợp và cùng tồn tại của bốn yếu tố căn bản. Khi chúng ta thấy sự hiện diện của bốn yếu tố này - lửa, nước, đất và không khí - chúng ta nhận ra rằng chúng đang chống đối nhau trong bản chât tự nhiên. Khi chúng ta nói, "tôi vui vẻ" hay "tôi mạnh khỏe", chúng ta đang nói là chúng ta mạnh khỏe trong ý nghĩa rằng bốn yếu tố này cân bằng trong năng lực của chúng. Khi có một sự thay đổi nhỏ trong sự cân bằng năng lực của bốn yếu tố này chúng ta bị một chứng bệnh nào đấy. Sự thanh thoát đã mất cân bằng.
Hiện nay tôi đã hơn sáu mươi sáu tuổi. Cho đến bây giờ, thân thể này vẫn tồn tại do bởi nhiều lý do. Nhưng cho thân thể đơn thuần sống còn... nó có ý nghĩa gì? Tuy nhiên, nếu sự thông minh kỳ diệu của con người tồn tại và thể hiện chức năng một cách bình thường, chúng ta cố gắng để trau dồi lòng vị tha vô hạn và một sự thấu hiểu sâu xa hơn về thực tại. Điều ấy là tuyệt diệu: đó là quan điểm của Đạo Phật. Vậy thì hãy trầm tư trên những dòng này. Trong cách này, nếu chúng ta suy xét một cách thích đáng, chúng ta sẽ có thể thấu hiểu một cách rõ ràng làm thể nào chúng ta nhận thức thân bất tịnh này như điều gì đấy thanh tịnh và vô nhiễm.
*Khi chúng ta nói về nhận thức sai lầm thứ hai, đấy là nhận thức những gì khổ não như hạnh phúc, chúng ta không nói về trình độ thô thiển thông thường bởi vì ở tại trình độ nông cạn thông thường, không ai xác định khổ đau là hạnh phúc. Chúng ta đang nói về một trình độ thâm sâu hơn. Như tôi đã đề cập phía trước, có hai loại cảm giác: cảm giác ở mức độ thân thể và cảm giác ở mức độ tâm thức. Hầu hết những hạnh phúc thân thể sinh khởi qua một sự giảm sút khổ não của thân thể. Thí dụ, nếu chúng ta đang run lẩy bẩy trong lạnh giá một lúc nào đấy và đột nhiên chạy vào trong ánh nắng và ở đấy, chúng ta cảm thấy hài lòng và vui vẻ. Không có một sự toại nguyện nào ở trong ánh nắng ấy: mà chỉ vì nó đem đến một sự giảm thiểu của khổ đau từ sự lạnh giá.
Để minh chứng điều này, nếu nó là một niềm hạnh phúc chân thật miên viễn, điều gì đấy độc lập, chúng ta có thể ở trong ánh nắng ấy một hồi lâu và niềm hạnh phúc chúng ta sẽ tăng lên chứ không giảm xuống. Nhưng lại không phải vậy. Sau một lúc, chúng ta sẽ cảm thấy nóng lên, và sẽ cần di chuyển vào trong bóng mát một lần nữa. Cảm giác hạnh phúc và toại nguyện ban đầu sẽ biến thành khổ sở nếu chúng ta ở trong nắng quá lâu. Trong nhiều trường hợp, một cảm giác khoan khoái vật lý dường như tốt đẹp, toại nguyện, và sung sướng, nhưng trong một sự phân tích sát sao hơn, nếu tiếp tục, nó sẽ trở thành không thoãi mái.
Quan tâm đến cảm giác tinh thần của hạnh phúc, ngay khi chúng ta ở dưới sự khống chế cùa những cảm xúc phiền não, tâm thức không độc lập, nó không tự do. Thế nên, nếu chúng ta suy xét một cách thích đáng, chúng ta sẽ thấu hiểu một cách rõ ràng rằng tâm thức chúng ta sẽ chạm trán với khổ đau một cách chắc chắn ngay cả chúng ta cảm thấy hạnh phúc tạm thời. Thí dụ, nếu chúng ta khổ đau vì một chứng bệnh kinh niên, chúng ta có thể không chạm trán với những đớn đau cấp tính vào mọi lúc, nhưng chúng ta không khỏe mạnh; chúng ta không tự do khỏi chứng bệnh kinh niên ấy.
*Nhận thức sai lầm thứ ba là thấy những gì vô thường lại cho là thường. Đấy là do bởi một sự chấp trước mạnh mẽ vào tự ngã mà trong đời sống hằng ngày chúng ta có khuynh hướng để thấy kinh nghiệm của chúng ta về hạnh phúc như điều gì đấy sẽ tồn tại lâu dài, điều gì đấy sẽ hiện hữu mãi mãi. Chúng ta có khuynh hướng để nhận thức những thứ này như thường còn. Thí dụ, khi tôi đi ngang qua một lâu đài cổ, tôi nghĩ rằng vào lúc lâu đài được xây lên, vị vua đã cảm thấy một cách tự nhiên rằng nó là bền vững. Hãy nhìn vào Vạn Lý Trường Thành ở Trung Hoa. Xuyên qua nhiều năm, thật nhiều người, qua những sự chỉ huy khắc nghiệt, đã dựng lên bức tường thành. Vị hoàng đế đã nghĩ rằng vương quốc của ông là cơ đồ vĩnh cửu. Bây giờ không còn gì ngoài những bức tường thành. Hãy nhìn vào Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông. Mỗi người đã có những cảm giác mạnh mẽ về khu vực 'của tôi', tư tưởng 'của tôi', quyền lực 'của tôi', và họ đã giết hại một cách tàn nhẫn hàng triệu người trong việc cố gắng để làm cho những thứ ấy lâu dài.
Thật hữu ích để suy xét trên vô thường. Về điều này, có hai trình độ. Một là thật vi tế. Thứ kia là sự vô thường liên tục, như cái chết của cây cỏ, sự chấm dứt của bất cứ sự sống nào. Điều này là có thể bởi vì mọi thứ đang thay đổi từ thời khắc này đến thời khắc khác. Nếu mọi vật không thay đổi, việc quán chiếu về sự chấm dứt tương tục là không thể có. Cái đến của một sự chấm dứt của bất cứ một đối tượng cụ thể nào trong dạng thức sự tương tục của nó là có thể bởi vì có một sự thay đổi thường xuyên xảy ra trong mọi hiện tượng vô thường. Bằng việc quán chiếu và nhận thức sự biến hoại liên tiếp của một đối tượng hay một hiện tượng vô thường, chúng ta có thể kết luận bản chất tự nhiên biến đổi của tất cả những loại hiện tượng vô thường.
Để thông hiểu bản chất tự nhiên của tính vô thường và tan rã, chúng ta phải nhận ra rằng mỗi hiện tượng vô thường, tại thời điểm nó hình thành sự hiện hữu, sự biến đổi cũng ra đời trong tự nhiên, trong bản chất của sự biến hoại. Điều này thật vô cùng lợi ích hơn là cố gắng để thấu hiểu nó trong ý nghĩa rằng điều gì đó cuối cùng rồi sẽ biến rã và không còn nữa.
*Nhận thức sai lầm thứ tư là xem vô ngã như có ngã và như có một sự tồn tại độc lập. Liên quan đến sự diễn dịch ý nghĩa của vô ngã, có nhiều trường phái triết lý Phật Giáo đưa ra những sự diễn dịch và giải thích khác nhau. Sự thấu hiểu thông thường về ý nghĩa vô ngã là không có bản ngã tự túc, tự lực, và tự tồn (có tự tính). Một khi chúng ta có thể thấu hiểu rằng không có bản ngã tự hổ trợ và tự đầy đủ, chúng ta sẽ có thể chống lại nhận thức sai lầm rằng có một bản ngã như vậy. Một khi chúng ta có thể nhận ra quan điểm sai lầm này, chúng ta có thể chinh phục chấp trước, dính mắc, và sân hận. Cảm nhận về bản ngã của chúng ta càng mạnh như tự lực và tự túc, chúng ta sẽ càng dính mắc hơn với thân thể, nhà cửa, người thân, v.v... của chúng ta. Trái lại, nếu có một thông hiểu về sự vắng bóng của một bản ngã như vậy, chúng ta càng ít bị dính mắc chấp trước vào những đối tượng vật chất.
Đức Phật không những chỉ dạy về tính vô ngã của con người (nhân vô ngã), mà còn chỉ dạy về tính vô ngã của tất cả mọi hiện tượng (pháp vô ngã). Điều này có nghĩa rằng không chỉ con người thiếu sự tự túc, tự lực, tự tồn, mà những đối tượng được con người thụ hưởng cũng chỉ là sự hiện hữu của vô thường. Chúng ta có khuynh hướng thấy những đối tượng vật chất ngoại tại mà chúng ta hưởng thụ có một sự tồn tại độc lập cố hữu bền vững, nhưng không có đối tượng nào và sự thụ hưởng nào như vậy cả.
Với sự quan tâm đến giải thích về sự vật không hiện hữu như chúng xuất hiện đến với chúng ta, một lần nữa, có những sự diễn dịch triết lý khác nhau. Theo Duy Thức Học, mặc dù mọi vật xuất hiện đến với chúng ta có sự tồn tại bên ngoài, trong thực tế, không có sự tồn tại bên ngoài như thế. Mọi thứ ở trong bản chất tự nhiên của tâm thức. Thế thì, theo Trung Quán Tông, mọi vật không tồn tại trong cách mà chúng xuất hiện đến chúng ta. Nếu chúng ta phân tích một cách cẩn thận, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi vật được nhận thức không có một sự tồn tại độc lập hay cố hữu (vô tự tính) mà đúng hơn giống như một vọng tưởng. Chúng bị điều kiện hóa bởi những khả năng cảm giác của tâm thức.
Sự thấu hiểu của chúng ta càng thâm sâu về vô ngã của con người và vô ngã của tư tưởng, chúng ta càng có thể thấu hiểu bề mặt kia của đồng xu - sự liên hệ hổ tương của mọi vật. Mặc dù sự vật không có sự tồn tại cố hữu (vô tự tính), chúng thì phụ thuộc tương quan liên kết hỗ tương lẫn nhau.
Do thế, trong sự thấu hiểu của chúng ta về bốn nhận thức sai lầm, ba sự thấu hiểu đầu là những cách đối trị để phủ nhận những nhận thức sai lầm của chúng. Qua sự thấu hiểu về nhận thức sai lầm thứ tư, chúng ta có thể nhổ tận gốc rể hạt giống nhận thức sai lầm về bản ngã.
Vì vậy, có những phương pháp khác nhau để chiến đấu với các cảm xúc tiêu cực: cung cách của Thanh Văn Thừa, Bồ Tát Thừa, và Mật Thừa. Trong khi có những sự khác nhau trong ba cung cách, thì tất cả đều có cùng khuynh hướng là xóa trừ hoàn toàn những cảm xúc tiêu cực. Đấy là niết bàn.
Trong thực hành, người ta thường muốn một phương pháp cụ thể để chiến thắng những bất toại ý về tinh thần. Tuy nhiên, không thể thực tập một phương pháp và lập tức giải thoát khỏi mọi băn khoăn phiền não. Tôi nghĩ giống như sức khỏe của thân thể. Khi thân thể của chúng ta, cơ cấu, và hệ thống miễn nhiễm mạnh khỏe, chúng ta có thể kháng cự lại và loại trừ một sự tiêm nhiễm ngay lập tức. Nhưng nếu hệ thống miễn nhiễm của thân thể yếu ớt, ngay cả một sự tiêm nhiễm nhỏ cũng rất khó khăn để loại trừ. Tương tự như thế, nếu thái độ tinh thần căn bản khỏe mạnh và kiên cố qua rèn luyện, thông tuệ, và tự tin, và khi tai họa gì đấy xảy ra - nếu chúng ta mất đi cha mẹ, hay một người thân yêu, hay nếu một việc bất công xảy ra, hay nếu chúng ta tiêm nhiễm một chứng bệnh không chữa được - thái độ tinh thần mạnh khỏe của chúng ta sẽ đầy đủ để có thể chống lại nó. Chúng ta có thể duy trì sự bình thản của tâm hồn và có thể chịu đựng bất cứ nổi bất hạnh nào một cách an bình hơn, và tích cực hơn.
Nếu thái độ tinh thần của chúng ta không được rèn luyện đầy đủ, vượt thắng những rắc rối sẽ trở nên khó khăn. Rèn luyện tâm thức là rất quan yếu. Để rèn luyện một cách thích đáng, chúng ta phải tin chắc, là điều chỉ có thể đến nếu chúng ta phân tích một cách toàn hảo. Nhằm để làm điều này, chúng ta cần nhiều tài liệu và nhiều thông tin. Do vậy, chúng ta thấy, phương pháp thực tập Phật Giáo bắt đầu với sự học hỏi. Học hỏi bằng sự nghe, bằng sự đọc, chỉ để tiếp thu thông tin. Một khi chúng ta tập họp thông tin, chúng ta phải tự phân tích chúng. Không chỉ dựa vào những trích dẫn của Đức Phật. Đúng hơn là dựa vào sự khảo sát và thẩm tra của chúng ta. Đây là cung cách mà chúng ta có thể phát triển một niềm tin vững vàng, là điều mà cuối cùng làm nên sự khác biệt trong thái độ tinh thần của chúng ta.
Do vậy, nhằm đề vượt thắng những cảm xúc tiêu cực của chúng ta, chúng ta cần sử dụng sự thông tuệ của chúng ta để phân tích. Chúng ta cũng phải phân tích, với sự hổ trợ của óc thông minh, cảm xúc tích cực như lòng tin và từ bi mạnh mẽ. Trông cách này, tuệ trí và những cảm xúc tích cực có thể tăng trưởng bên cạnh nhau. Niềm tin và từ bi thích đáng phải được căn cứ trên lý trí và thông tuệ: đấy là cung cách của Đạo Phật. Và đấy là phương pháp để vượt thắng những cảm xúc tiêu cực, để ngừng chúng lại, để kết thúc chúng.