THI HÀO NGUYỄN DU
NƠI CỬA PHẬT
NGHIÊM XUÂN HỒNG
Từ lâu, tôi vẫn thầm coi cụ Nguyễn Du như Đệ Nhất Thi Bá của Việt Nam, có lẽ Đệ Nhất Thi Bá của cả thế giới. Lý Thái Bạch có cái hào sảng thoát tục của một nhà thơ đã thể nhập Đạo Học, nhưng không thể có cái lâm ly trác tuyệt và đa dạng của Nguyễn Du. Các thi hào khác ở phương Tây cũng vậy, như Homere, Milton, Byron... mỗi người đều có thứ văn phong đặc biệt của mình, nhưng vẫn không có nổi cái tâm lý trác tuyệt ấy.
Tôi không phải là người có xu hướng quốc gia cuồng tín (Chauvin), không ưa nghĩ rằng cái gì của dân tộc mình cũng là nhất. Nhưng đối với những áng văn chương như Kim Vân Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung Oán, tôi thấy khó tìm ở trên thế giới những áng văn chương tương tự... Tiềm năng ngàn đời của dân tộc có lẽ cũng không đủ để giải thích những sự kết tinh ấy. Cho nên, tôi vẫn coi những áng văn ấy như một "phép lạ" về văn học của dân Việt.
Song song với phép lạ ấy, có lịch sử dân Việt còn ghi dấu 2 phép lạ khác: Phép lạ quân sự tức là việc đã ba lần đánh bại quân Nguyên, tức là đạo quân đã dẫm nát hai cõi lục địa Âu-Á. Phép lạ thứ 3 là phép lạ về Đạo Học: Sau khi đánh Đông dẹp Bắc, một số những vua tôi nhà Trần đã quăng gươm, cởi giáp, bỏ ngôi vua, khoác áo nhà Thiền để suy ngẫm về lẽ màu nhiệm của cái Tâm vi diệu. Các vị đó đã viết nên những áng văn như Phóng Cuồng Ca, hoặc Khóa Hư Lục...
Thiết tưởng trên lịch sử thế giới, khó mà có thể tìm thấy những bậc anh tài trác tuyệt như vậy.
Tôi vốn tin ở lẽ Luân Hồi và thuyết Giáng Thai. Nên trộm nghĩ rằng ở những giai đoạn ấy, đã có những vì sao ở các cõi khác tự nguyện giáng thai nơi đây để soi sáng những khúc quanh trong cái định mệnh phiêu bồng của dân Lạc Việt này.
Nay bước sang vấn đề tư tưởng Nguyễn Du và giáo lý nhà Phật. Từ khi cầm bút, tôi vẫn ngần ngại không dám viết gì về Nguyễn Du. Vì nhiều lẽ.
Lẽ thứ nhất là văn chương của cụ quá hay. Đọc những câu thơ như:
Nửa vành tuyết ngậm, bốn bề trăng soi..
hoặc
Đánh tranh lợp mái thảo đường,
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi
thì mình còn biết nói gì nữa đây?
Lẽ thứ hai là tâm thức của cụ quá đa dạng. Lẽ thứ ba là muốn phê phán một người, mình cần phải biết rõ cuộc sống của người ấy, về những trợ duyên bên ngoài, về tâm thức, về những chủng tử trong tiềm thức và vô thức của người ấy. Những điều đó, tôi điều không biết rõ về cụ Nguyễn Du.. Cũng như Trang Tử xưa kia từng nói với người bạn: "Anh không phải là con cá đương tung tăng bơi lội kia, thì làm sao anh biết được là nó sung sướng?"
Bởi vậy, nên những dòng viết sau đây chỉ là mạo muội nói lên một vài ý nghĩ đơn sơ của riêng tôi khi đọc Chiêu Hồn Ca và Kim Vân Kiều:
Tôi thiển nghĩ rằng cụ Nguyễn Du am hiểu rất sâu xa về Đạo Phật. Hình như trong một bài thơ nào đó, cụ nói rằng đã đọc 1000 lần Kinh Kim Cương và tin ở cuộc hành trình mệnh mạng của thần thức qua các hình hài và các cõi. Mở đầu truyện Kiều, cụ đã giới hạn ngay và rõ ràng câu chuyện của cụ:
Trăm năm trong CÕI người ta...
Trong Chiêu Hồn Ca cụ mô tả những cô hồn chờ đợi giờ đầu thai:
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt sương khô
Não người thay, buổi chiều thu!
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng
Hàng bạch dương bóng chiều man mác
Dậm đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm...
Trong trường dạ tối tăm trôi dạt
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sanh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người...
Trong vòng trầm luân mênh mang ấy, cụ hiểu rằng tất cả đều là do nghiệp lực dẫn dắt. Cho nên, khi vãi Giác Duyên hỏi:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
Mà sao chịu những đoạn trường khắc khe?
Thì Tam Hợp Đạo Cô trả lời theo nghiệp lực:
Đã mang lấy NGHIỆP vào THÂN,
Thời đừng trách lẫn trời gần, trời xa...
Có trời mà cũng có ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan.
Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
Lại mang lấy một chữ TÌNH,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong...
Nghiệp lực của chúng sanh đã dệt nên những nỗi đau triền miên ấy rồi, cụ Tố Như cũng tin rằng thần lực của Chư Phật có thể cứu độ chúng sanh ra khỏi biển trầm luân ấy:
Mười loài là những loài nào,
Trai, gái, nhớn, bé, hãy vào nghe Kinh.
Nhờ PHÉP PHẬT siêu sinh Tịnh Độ...
Những câu thơ trên đây phảng phất trong phong vị và ý nghĩa của lời dạy trong Kinh Hoa Nghiêm: "Hoa tạng thế giới này, cùng thân tâm của chúng sanh đều là do nghiệp-lực-hải của chúng sanh, do nguyên-lực-hải của chư Phật chiêu cảm mà khởi lên..."
Hoặc lời nói trong Kinh Lăng Nghiêm: "Nếu tình nhiều mà tưởng ít, sẽ dễ bị đọa xuống những cõi dưới. Nếu tưởng nhiều, sẽ dễ bay bỗng lên các cõi trên..."
Nhưng tâm thức của cụ Tố Như chưa phải là một tâm thức thuần nhất, mà là một tâm thức đa dạng.
Nó là một thứ lăng kính phản chiếu nhiều hào quang. Không phải riêng thứ hào quang chói lòa của Đạo Phật, mà còn hai thứ hào quang le lói nhưng êm dịu khác: hào quang nhẹ nhàng tiêu dao của Lão-Trang, và hào quang bồng bột say đắm của kẻ sĩ phu Nho học. Nên nhớ cụ Nguyễn sống giữa một thời kỳ tuy nhiễu nhương, nhưng chìm đắm trong một bầu không khí sĩ phu khoa cử... Nếu giáo lý Phật bao trùm trong vô thức cùng tiềm thức của cụ, thì tiềm thức vẫn còn nuối tiếc ít nhiều Lão Trang, và những giấc mộng sĩ phu vẫn đè nặng trên ý thức.
Do đó. TÌNH ĐỜI của cụ khá nặng. Thoảng nhớ câu thơ tiền chiến của Huy Cận:
Mỗi năm hoa lại về
Hoa nói gì với người?
Tình người chắc nặng lắm,
Hoa nói hoài không thôi...
Vậy Tình Đời của kẻ sĩ phu là gì? Đó chỉ là nghiệp lưu luyến về thanh sắc, hoặc là giấc mộng công danh... Do đó, cụ Nguyễn đôi khi muốn làm Kim Trọng, đôi khi muốn làm Thúc Sinh, nhiều khi muốn làm Từ Hải, đôi khi muốn sống đời mây ngàn hạc nội, có khi muốn làm Thiền sư... Cũng như Kiều khư khư ôm lấy nghiệp Tình, cụ Nguyễn vẫn nuối tiếc cái nghiệp sĩ phu.
Tôi đôi khi thoảng nghĩ cụ Nguyễn Du hơi tương tự như Tô Đông Pha: trong một tiền kiếp nào đó, từng làm một vị Thiền sư lỗi lạc, nhưng trong một cơn Thiền Định, bỗng động niệm thanh sắc, hoặc động niệm công danh, nên bị đọa xuống làm một văn nhân lừng lẫy một thời... Khi chợt nghĩ đến thân thế mình, cụ hạ bút:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Hoặc khi nói đến Thiền Duyệt hoặc Thiền Vi, cụ viết:
Đã đem mình gởi am mây
Thân này sánh với cỏ cây cũng vừa...
Mùi thuyền đã bén muối dưa
Mầu thuyền ăn bận đã ưa nâu sòng,
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Hay thì hay thiệt, nhưng có lẽ vẫn chưa phải đúng là thái độ tâm thức của người Phật tử chân chính. Vẫn có sự đành tâm, vẫn còn sự nuối tiếc chốn bụi hồng... Người Phật tử không nghĩ tới những giọt lệ hậu thế, dù là 300 năm hay 3000 năm, không nuối tiếc chốn bụi hồng, luôn luôn muốn làm người khách lạ, ra vào tự tại trong các cõi, không luyến tiếc cũng như không sợ hãi, vẫn bất tử, và Diệu Tâm của mình cũng là Diệu Tâm của tất cả chúng sanh. Nhưng cũng cần ghi rằng chính sự giằng co của tấm lăng kính đa dạng ấy, mà lối thơ của cụ Tố Như đã đến chỗ tuyệt vời... Và tuy chưa bộc lộ được đúng mức thái độ tâm thức của người Phật tử, những vần thơ tuyệt diệu của cụ vẫn gieo sâu nhiều ý niệm Phật Giáo và tâm khảm của toàn thể dân tộc, và như thế, công hoằng dương giáo lý của cụ thực mêng manh rộng lớn.