KIDDIE TAX
THÚY CHI – IRS/SPEC
1. “Kiddie Tax” trên lợi tức đầu tư của trẻ em.
“Kiddie Tax” hay còn gọi là thuế đánh trên lợi tức đầu tư của trẻ em. Bộ luật thuế trẻ em ra đời năm 1986 nhằm giúp ngăn ngừa tình trạng nhiều gia đình giàu có chuyển tên nguồn lợi tức cao từ vốn đầu tư của cha mẹ sang cho con cái để tránh thuế.
Vào ngày 17 tháng 5 năm 2006, loại thuế trẻ em đã chính thức tăng lên. Theo bộ luật thuế được ban hành vào ngày này – the Tax Increase Prevention and Reconciliation Act – một quy định mới bắt đầu có hiệu lực duy trì các mức thuế của cha mẹ trên nguồn lợi tức đầu tư của con cái cho đến khi đứa trẻ đủ 18 tuổi.
Như vậy, mãi đến gần đây, “kiddie tax” vẫn được áp dụng cho trẻ em dưới 14 tuổi; bộ luật mới đã đẩy số tuổi của trẻ em lên 18 tuổi, và theo đó, bất kể số tiền nào trẻ có được từ đầu tư (unearned income) trong năm 2007 vượt quá số tiền $1,700 sẽ được đánh thuế theo thuế suất của cha mẹ đứa trẻ.
Nguyên bản đầu tiên của bộ luật nêu rõ một phần của nguồn tiền đầu tư kiếm được dưới tên của một đứa trẻ được miễn thuế; một phần khác phải đóng thuế theo mức thuế dành cho trẻ em; còn lại những khoản tiền khác cao hơn phần lợi tức quy định thứ hai sẽ đóng thuế theo mức thuế cao nhất của cha mẹ đứa trẻ, mức thuế cao nhất này có thểlên đến 35 phần trăm.
2. Những quy định mới liên quan tới “Kiddie Tax” ảnh hưởng như thế nào đến nguồn lợi tức đầu tư của trẻ em?
Lợi tức đầu tư của trẻ dưới 18 tuổi có thể bị ảnh hưởng bởi hai quy định sau đây:
* Nếu tổng lợi tức từ lãi cổ phần (dividend income) và lãi tiết kiệm (interest income), bao gồm lãi đầu tư phân phối (capital gain distribution), ít hơn số tiền $8,500, cha mẹ của đứa trẻ có thể chọn cộng chung nguồn lợi tức này của trẻ vào lợi tức của cha mẹ, không phải khai hồ sơ thuế cho đứa trẻ.
* Nếu tổng lợi tức từ lãi cổ phần, lãi tiết kiệm và các nguồn lợi tức đầu tư khác nhiều hơn $1,700, một phần của số tiền này có thể phải đóng thuế theo thuế suất trên lợi tức của cha mẹ thay vì theo thuế suất dành cho trẻ em.
Theo các quy định thuế vụ này, thuật ngữ “trẻ em” cũng bao gồm con chính thức nuôi dưỡng (a legally adopted child) và con riêng của vợ/chồng (a stepchild). Các quy định áp dụng bất kể đứa trẻ có phải là người sống phụ thuộc vào cha mẹ hay không.
Hai quy định kể trên sẽ không được áp dụng khi:
* Đứa trẻ không phải khai và nộp hồ sơ thuế.
* Vào cuối năm khai thuế, cha mẹ của đều qua đời, hoặc
* Cho năm thuế, đứa trẻ khai chung hồ sơ thuế với người phối ngẫu.
3. Liên quan giữa hồ sơ khai thuế của cha mẹ và tiền thuế trẻ em có nguồn lợi tức đầu tư phải đóng thuế?
a. Cha mẹ đứa trẻ khai chung hồ sơ thuế – Parents who file a joint return: Nếu cha mẹ của đứa trẻ chính thức kết hôn và khai chung hồ sơ thuế, hãy sử dụng hồ sơ thuế này để tính tiền thuế cho nguồn lợi tức đầu tư của trẻ dưới 18 tuổi.
b. Cha mẹ đứa trẻ không khai chung hồ sơ thuế – Parents who do not file a joint return: Trường hợp cha mẹ của đứa trẻ không khai chung hồ sơ thuế, những trường hợp sau đây hướng dẫn cách khai thuế cho trẻ có nguồn lợi tức đầu tư phải đóng thuế.
* Cha mẹ chính thức kết hôn, sống chung nhưng khai riêng hồ sơ thuế – Parents are married, living together, but filing separate returns: sử dụng hồ sơ thuế của cha hoặc mẹ có nguồn lợi tức phải đóng thuế cao hơn.
* Cha mẹ chính thức kết hôn, sống riêng, và khai riêng hồ sơ thuế – Parents are married, living separate, and filing separate returns:
- Sử dụng hồ sơ thuế của cha hoặc mẹ chung sống với đứa trẻ nếu người cha hay mẹ này được xem như người không kết hôn trong năm thuế (considered unmarried custodial parent).
- Sử dụng hồ sơ thuế của cha hoặc mẹ có nguồn lợi tức phải đóng thuế cao hơn nếu người cha hay mẹ này không được xem như người kết hôn trong năm thuế (considered married non-custodial parent).
c. Cha mẹ ly dị – Parents are divorced:
* Trường hợp cha và mẹ của đứa trẻ đã ly dị hay chính thức ly thân, sử dụng hồ sơ thuế của người cha hay mẹ sống chung với đứa trẻ thời gian dài hơn trong năm và chưa kết hôn với người khác để tính thuế cho nguồn lợi tức đầu tư của đứa trẻ.
* Nếu người cha hay mẹ ly dị hoặc ly thân sống chung với đứa trẻ kết hôn với người khác, cha ghẻ hoặc mẹ ghẻ được xem như một người cha/mẹ khác của đứa trẻ (other parent). Do đó nếu hai người này đã chính thức kết hôn và khai chung hồ sơ thuế, sử dụng hồ sơ thuế của họ để tính thuế cho nguồn lợi tức đầu tư phải đóng thuế của đứa trẻ.
* Nếu người cha/mẹ được quyền nuôi dưỡng đứa trẻ đã kết hôn với người khác, nhưng không khai thuế chung với người này, sử dụng hồ sơ thuế của người có nguồn lợit ức phải đóng thuế cao hơn.
* Trường hợp người cha/mẹ sống chung với đứa trẻ đã kết hôn với người khác nhưng lại không chung sống với nhau trong năm khai thuế, áp dụng quy định dành cho cha mẹ chính thức kết hôn khưng không chung sống (vì người cha ghẻ hay mẹ ghẻ được xem như người cha hay mẹ khác của đứa trẻ.)
d. Cha mẹ của đứa trẻ chưa từng kết hôn với nhau – Parents never married:
* Nếu cha mẹ của đứa trẻ có nguồn lợi tức đầu tư phải đóng thuế không hề kết hôn với nhau, nhưng vẫn sống chung nhà trong cả năm thuế, sử dụng hồ sơ thuế của người nào có nguồn lợi tức phải đóng thuế cao hơn để tính thuế “kiddie” cho đứa trẻ.
* Nhưng nếu trong năm thuế cha mẹ ruột chưa từng kết hôn của đứa trẻ không sống chung, các quy định về cha mẹ ly dị sẽ được áp dụng cho trường hợp này.
e. Cha mẹ góa kết hôn với người khác – Widdowed parent remarried: Trường hợp cha hay mẹ ruột của đứa trẻ qua đời, người cha hay mẹ góa sau đó kết hôn với người khác, người phối ngẫu mới này được xem như cha/mẹ khác của đứa trẻ. Áp dụng những quy định dành cho cha/mẹ được quyền nuôi dưỡng đứa trẻ kết hôn với người khác.