CÁC CHI PHÍ Y TẾ
VÀ THUẾ VỤ
THÚY CHI – IRS/SPEC
1. Các chi phí y tế nào người thọ thuế có thể khai để được trừ thuế?
Các chi phí y tế được khai để trừ thuế dành cho người có liệt kê các chi phí khi họ khai và nộp hồ sơ thuế mỗi năm. Người thọ thuế có thể trừ một phần các chi phí thuốc men và chi phí nha khoa cho chính họ, vợ hay chồng, và người thân trong gia đình sống phụ thuộc vào họ khi tổng số các chi phí y tế trong năm cao hơn 7.5% lợi tức sau khi điều chỉnh (AGI).
Ví dụ: Lợi tức sau khi điều chỉnh năm 2006 của người thọ thuế là $100,000. 7.5% của số tiền này là $7,500. Nếu các chi phí y tế được trừ thuế của người này là $10,000, số tiền thuế có thể khai để giảm số thuế họ phải đóng cho năm này là $2,500 ($10,000 - $7,500).
Các chi phí y tế được trừ thuế thường gặp là:
* Tiền trả cho các cơ quan điều trị y tế (payments to medical practitioners).
* Phí bảo hiểm y tế (bao gồm phí bảo hiểm săn sóc dài hạn – long-term care premium).
* Chi phí bệnh viện (hospital charges).
* Chi phí săn sóc dài hạn (long-term care costs).
* Thuốc trị bệnh mua theo toa bác sĩ (prescription medicines and drugs).
* Phí mua tố chất insuline dưới dạng thuốc (Insuline là chất sản sinh trong tụy tạng/lá lách giúp mang lượng đường sản sinh trong cơ thể đến các tế bào).
* Các chi phí chuyên chở và di chuyển liên quan đến việc khám và điều trị bệnh (medical transportation).
* Một số các chi phí nha khoa (some dental expenses).
Các chương ttình y tế và các loại thuốc giúp bỏ hút thuốc lá (quit smoking) có thể đủ tiêu chuẩn khai trừ thuế như các chi phí y tế. Phí tổn tham gia các chương trình giảm cân (weight-loss program) do hậu quả của một số bệnh đặc biệt hay các bệnh khác bao gồm cả bệnh mập (obesity) theo kết luận của bác sĩ, cũng có thể được khai để trừ thuế (Trích điều luật Thuế Vụ – Revenue Ruling 2002-).
2. Trường hợp tôi đã trả các chi phí khám bệnh cho bác sĩ và bệnh viện, sau đó công ty bảo hiểm hoàn lại số tiền này cho tôi, tôi sẽ phải khai các chi phí y tế này như thế nào?
Các chi phí hãng bảo hiểm y tế trả cho bệnh viện hay các hóa đơn thuốc của người thọ thuế có bảo hiểm y tế không được khai để trừ thuế. Quý vị phải giảm các chi phí y tế trong năm 2006 của quý vị nếu trong năm quý vị được khoản tiền nào từ các hãng bảo hiểm bồi hoàn hay trả cho các chi phí y tế quý vị đã thanh toán. Trường hợp khoản tiền được bồi hoàn nhiều hơn chi phí quý vị đã bỏ ra, quý vị có thể phải khai khoản chênh lệch này vào nguồn lợi tức trong năm của quý vị. Trường hợp quý vị nhận được các khoản bù lỗ y tế do các hãng bảo hiểm gởi trả cho các chi phí quý vị đã bỏ ra trong năm trước đó và đã khai trừ thuế cho các khoản chi phí này trên hồ sơ thuế của năm trước, khi nhận được số tiền bù lỗ này, quý vị phải khai các khoản bù lỗ của năm trước vào tổng thu nhập của năm nhận được tiền bù lỗ. Nhưng nếu quý vị không khai để trừ thuế các chi phí y tế quý vị đã phải trả trong năm trước, chẳng hạn, vì quý vị không liệt kê các chi phí để trừ thuế, quý vị sẽ không phải bao gồm số tiền này vào tổng thu nhập của năm nay hoặc năm quý vị nhận được các khoản tiền bù lỗ.
3. Để có thể được khai để trừ thuế, các chi phí thuốc men có cần phải là tiền trả cho các loại thuốc do bác sĩ kê toa (Prescription drug) hay không?
Duy nhất chỉ các chi phí thuốc men mua theo toa bác sĩ và chi phí mua tố chất insulin được xem như các chi phí y tế được khai để trừ thuế. Thông thường, các khoản tiền quý vị bỏ ra để mua các loại thuốc không có toa bác sĩ không được khai để trừ thuế, nhưng quý vị có thể mua các loại thuốc tại quày thuốc qua một quỹ tiết kiệm không phải đóng thuế (a tax-free Flexible Savings Account). Muốn biết thêm chi tiết về quỹ tiết kiệm thuốc y tế này, xin tham khảo thêm ấn bản 969 của Sở Thuế Vụ. (Publication 969 – Health Savings Accounts and Other Tax-Favored Health Plans).
4. Chi phí trả cho các dưỡng đường chăm sóc ngưới già yếu (nursing home) có được xem như các chi phí y tế hay không?
Nếu một người vào dưỡng đường (nursinh home) vì cần được săn sóc và cung cấp các dịch vụ y tế cần thiết, toàn bộ các chi phí y tế ở dưỡng đường, bao gồm tiền ăn, ở, sẽ được khai để trừ thuế (a deductible medical expense).
5. Giới hạn của các khoản tiền được trừ cho chương trình săn sóc y tế dài hạn là bao nhiêu?
Mặc dù các chi phí bảo hiểm đủ tiêu chuẩn trả cho dịch vụ chăm sóc sức khỏa dài hạn được xem như một loại chi phí y tế, phần tiền được trừ thuế từ chi phí mua bảo hiểm lại giới hạn bởi số tuổi của người được bảo hiểm (the insured person’s age) tính theo ngày cuối cùng của năm thuế (at the close at the tax year).
Các mức giới hạn của các khoản tiền được trừ thuế cho năm 2006 căn cứ theo độ tuổi như sau:
* Từ 40 tuổi trở xuống: $280
* Từ 41 đến 50 tuổi: $530
* Từ 51 đến 60: $1,060
* Từ 61 đến 70: $2,830
* Từ 71 trở lên: $3,530
6. Chi phí di chuyển của mỗi lần đi khám bác sĩ có được khai để trừ thuế hay không?
Được trừ thuế. Các chi phí di chuyển khi quý vị, vợ/chồng, người sống phụ thuộc vào quý vị, đến gặp bác sĩ để khám bệnh được trừ thuế, nhưng quý vị cần phải giữ lịch di chuyển cụ thể để tính các chi phí theo quãng đường (keep detailed records). Quý vị phải khai các quãng đường di chuyển khi đi thăm khám bệnh cùng chi phí của các buổi thăm khám bệnh (trừ đi các chi phí bồi hoàn của các công ty bảo hiểm) nếu quý vị dự định khai để được trừ thuế. Người thọ thuế cũng có thể được trừ các khoản lệ phí đậu xe (parking fairs) , phí nâng cấp đường phải đóng (tolls), phí trả cho taxi, vé xe bus hoặc tàu điện v.v.
Trường hợp quý vị đi thăm khám bệnh bằng xe cá nhân, quý vị có thể tính được các chi phí quãng đường theo tiêu chuẩn một dặm đường được trừ thuế như sau:
* 18 cents mỗi dặm Anh từ đầu năm 2006 đến 31 tháng 8 2006.
* Tiêu chuẩn áp dụng từ 1 tháng 9 năm 2006 đến 31 tháng 12 năm 2006 sẽ được thông báo vào mùa thu.
7. Phí bảo hiểm nhân thọ có được trừ thuế hay không?
Không. Các chi phí mua bảo hiểm nhân thọ không được trừ thuế và quý vị không thể bao gồm các phí tổn này trong các chi phí y tế của năm. Mặt khác, tiền bồi thường nhân thọ do hãng bảo hiểm trả cho thân nhân và gia đình người quá cố được bảo hiểm thường không phải đóng thuế.