CHUYỆN NHỮNG NGÀY
CUỐI THÁNG 4
CỦA CHIẾN SĨ
KHÔNG QUÂN QLVNC
(Vy Trần SGT) - Tưởng niệm 40 năm tháng 4 đen SGT đã gởi đến quý vị chuyện cuả một số chiến sĩ QLVNCH thuộc các Quân Binh Chủng như chuyện của Trung Tá Lê Bá Bình Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH nhân vật chính cho Film RIDE THE THUNDER đã được chiếu trong những tuần qua, tiếp đến là chuyện của Trung Tá Nguyễn Tri Tấn Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh, chuyện của Bác Sĩ Quân Y Trương Văn Như thuộc Binh Chủng Nhảy Dù QLVNCH. Hôm nay chúng tôi kính mời quý vị cùng theo dõi chuyện cuả Trung Tá Không Quân QLVNCH Nguyễn Duy Diệm Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn Tiền Phương Không Quân thuộc Quân Đoàn I.
Cuối tuần qua Trung Tá Nguyễn Duy Diệm mặc dù đang bệnh nhưng ông đã dành cho đặc phái viên SGT một buổi trò chuyện về những ngày cuối tháng 4 năm 1975 cuả ông tại tư gia thành phố Garden Grove.
Trung Tá Nguyễn Duy Diệm sinh tại Đà Nẵng học Tiểu Học và Trung Học Đệ Nhất Cấp tại Đà Nẵng, học Đệ Nhị Cấp tại Quốc Học Huế
Sau khi tốt nghiệp khoá 17 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ông về phục vụ binh chủng Không Quân QLVNCH Phi Đoàn 110 (Đây là Phi Đoàn Không Quân đầu tiên của QLVNCH) Ông đã tham dự, bay yểm trợ hầu hết các cuộc hành quân lớn nhỏ của QLVNCH
Khi được hỏi về cuộc hành quân lớn Hạ Lào (Lam Sơn 719) Trung tá Diệm cho biết. Cuộc hành quân Lam Sơn 719 thật ra Không Quân Việt Nam chỉ có Phi Đoàn Quan Sát tham dự trên máy bay của Hoa Kỳ, cuộc hành quân này diễn ra vào năm 1971 trong lúc thời tiết rất xấu, phi cơ của Không Quân chúng ta không thể thực hiện các phi vụ bay yểm trợ các đơn vị hành quân đuợc, nên anh em Quan Sát Phi Đoàn 110 ở Đà Nẵng hàng ngày bay ra căn cứ Ái Tử (Quảng Trị) rồi từ Ái Tử máy bay OV10 của Không Quân Hoa Kỳ bốc đi để liên lạc yểm trợ các đơn vị QLVNCH đang hành quân trong vùng như đánh chỉ điểm mục tiêu, gọi phi pháo …. Phi cơ quan sát OV 10 với các các quan sát viên phi đoàn 110 bay trong cuộc hành quân này vô cùng nguy hiểm vì: thời tiết xấu khu vực bay hạn hẹp toàn núi non hiểm trở của dãy Trường Sơn thêm vào đó là hoả lực phòng không của Cọng Quân đan đầy trên bầu trời mỗi khi máy bay quan sát xuất hiện. May mắn cuộc hành quân này phi đoàn chúng tôi chỉ có những thiệt hại nhỏ không đáng kể
Tiếp đến cuộc hành quân Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị tôi là Thiếu Tá Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn Tiền Phương Không Quân đóng tại căn cứ Phú Bài (Huế) gồm Phi Đoàn 120 và Phi Đoàn 110 có từ 6 đến 10 Phi Hành Đoàn tăng phái cùng 5 Biệt Đội Trực Thăng trong đó có Biệt Đội 219 chuyên bay cho đơn vị Lôi Hổ và yểm trợ cho tiền phương, đây là các đơn vị Không Quân yểm trợ cho Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I. Trong khoảng thời gian này tôi được Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đặc cách thăng cấp Trung Tá tại mặt trận.
Đến tháng 12 năm 1974 tôi được đi học khoá Tham Mưu Cao Cấp, đến những giờ phút dầu sôi lửa bỏng tháng 4 năm 1975 của miền Nam anh em chúng tôi những sĩ quan khoá Tham Mưu Cao Cấp nóng lòng muốn trở về đơn vị để chiến đấu bên anh em, nhưng ngày mãn khoá là ngày cuối tháng 4 năm 1975, tức là vừa mãn khoá học là chúng ta tan hàng.
Ngưng ở đây một giây lát Trung Tá Diệm cho biết: cho đến bây giờ tôi vẫn còn một thắc mắc tại sao năm 1972 khi Hoa Kỳ nói chuyện với Trung Cọng xong tất cả mọi người chúng ta ai cũng biết là miền Nam đã bị bán đứng rồi nhưng tại sao Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cứ nhất định đòi 4 không mà không có một giải pháp nào cho miền Nam.
Được hỏi tại sao ở những giờ phút cuối có phương tiện trong tay mà ông không ra đi? Trung Tá Diệm cho biết: Biết được một số chiến hữu thuộc quyền cùng gia đình còn kẹt, lại mình là cấp chỉ huy không thể bỏ anh em ra đi, một lý do nữa là vì lúc đó vợ tôi và 4 cháu còn quá nhỏ, cháu lớn 8 tuổi cháu nhỏ nhất mới sanh vì thế tôi quyết định ở lại, chấp nhận thương đau cùng các anh em. Sau đó thì cũng như các anh em quân nhân khác bắt đầu cuộc đời gần 13 năm tù dưới chế độ Cọng Sản.
Trung Tá Diệm tiếp, tôi đã trải qua các trại tù Xuân Lộc, Suối Máu, Yên Bái, trại 8 Hoàng Liên Sơn khi Trung Cọng đánh vào vùng Biên Giới phía Bắc thì chúng tôi di chuyển về Tuyên Quang, năm 1982 chuyển về Z 30A thuộc tỉnh Đồng Nai đến năm 1988 ra khỏi trại tù, nói về trại tù khắc nghiệt nhất ông cho biết tiếp các trại ở phía Bắc của Hoàng Liên Sơn anh em tù chúng tôi thường gọi là trại Trừng Giới vô cùng hắc ám, rất nhiều anh em tù chúng tôi đã bỏ mình tại những trại tù này vì bệnh tật không thuốc men, đói khát, bị uy hiếp tinh thần …
Chúng tôi đã bị vắt đến sức tàn, lực kiệt qua câu nói của những tay cán bộ quản giáo: Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm. Anh em chúng tôi chế thêm:
Làm đêm không đủ tranh thủ làm 24 tiếng đồng hồ. Thế là cả trại bị ngồi đồng hàng đêm sau mỗi ngày đi lao động về (tức là ngồi họp kiểm điểm vì theo các tay quản giáo là: tư tưởng chưa thông mang bình đông cũng nặng)
Gia đình chúng tôi định cư tại Hoa Kỳ HO.3 năm 1990. Bây giờ thì các cháu đã trưởng thành và đã có gia đình riêng, các cháu vẫn sống và làm việc quanh vùng Orange County
Khi được hỏi đã 40 năm qua sau ngày đen tối của miền Nam điều gì ông vẫn còn ấm ức trong lòng. Trung Tá Diệm cho biết: Như chúng ta biết Cách Mạng là đổi mới, thay cái cũ thành cái mới tốt đẹp hơn, nhưng với Cọng sản Việt Nam Cách Mạng đã 40 năm mà cái bù lon làm cũng chưa được thì gọi cách mạng là cái gì? chúng đã đưa toàn đất nước Việt Nam vào một nhà tù lớn người dân không có bất cứ quyền tự do nào cả, tham nhũng tràn lan, xã hội băng hoaị, giáo dục suy đồi.
Trung tá Diệm tiếp trong thời gian gần đây Cọng Sản Việt Nam qua những tay sai ở hải ngoại và trong nước đưa ra chiêu bài cũ là Hòa Hợp Hòa Giải, theo ông với Cọng Sản nếu đập được đầu chúng là chúng ta phải đập liền với Cọng Sản thì đừng bao giờ nói, vì chúng ta nói với Cọng Sản cũng vô ích và mất thì giờ mà thôi, Cọng Sản có ngôn ngữ riêng khác với ngôn ngữ của người Việt Tự Do chúng ta.
Nhất là trong giai đoạn này ước mong mọi người Việt yêu chuộng tự do tại hải ngoại xin hãy ngồi lại với nhau tạo một sức mạnh chung vận động chính giới Hoa Kỳ, Dân Biểu, Nghị Sĩ địa phương trong đó có rất nhiều con em chúng ta là những vị dân cử gốc Việt để công việc tranh đấu cho một Việt Nam sớm có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền./