TƯỞNG NIỆM 40 NĂM
THÁNG 4 ĐEN, CHUYỆN KỂ
NHỮNG NGÀY CUỐI THÁNG 3
VÀ THÁNG 4 NĂM 1975
(Vy Trần SGT) - Tưởng niệm 40 năm tháng 4 Đen năm nay, trung tá Nguyễn Tri Tấn Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã dành cho SGT một buổi phỏng vấn về những ngày cuối tháng 3 và tháng 4 năm 1975 của đơn vị ông.
Trung Tá Nguyễn Tri Tấn tốt nghiệp khoá 12 trường Bộ Binh Thủ Đức (cùng khoá với Trung Tá Lê Bá Bình tiểu đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Sói Biển Thủy Quân Lục Chiến VNCH nhân vật chính trong cuốn phim RIDE THE THUNDER vừa được chiếu trong tuần qua)
Kể từ khi ra trường với cấp bậc chuẩn Uý Trung Đội Trưởng cho đến cấp bậc cuối cùng là Trung Tá Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 2 Bộ Binh là sĩ quan phục vụ tại các đơn vị tác chiến thuộc vùng giới tuyến tham dự hầu hết các cuộc hành quân của QLVNCH như tái chiếm thành phố Huế sau Mậu Thân, trận chiến Hạ Lào năm 1971, mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 cùng những trận đánh cuối cùng của người lính VNCH trước khi miền Nam rơi vào tay Cọng Sản
Trung Đoàn 2 trước đây thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Trung Đoàn 2 khu vực trách nhiệm là vùng giới tuyến từ vỹ tuyến 17 trở vào Đông Hà và là Trung Đoàn đặc biệt nhất của QLVNCH là có 5 Tiểu Đoàn, vào những thập niên 1970 khi chiến trường vùng giới tuyến ngày càng khốc liệt Sư Đoàn 3 Bộ Binh đuợc thành lập gồm 9 Tiểu Đoàn mà nồng cốt nhất của Sư Đoàn này là Trung Đoàn 2 của Sư Đoàn 1 Bộ Binh đưa qua và Sư Đoàn Trưởng đầu tiên của Sư Đoàn 3 là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai
Sau mùa Hè Đỏ Lửa, Sư Đoàn 3 Bộ Binh được tái chỉnh trang, được giao trách nhiệm mới là vùng Quảng Đà và một phần của tỉnh Quảng Tín, lúc bấy giờ tôi là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Trung Đoàn 2 (tham dự hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719 cho đến năm 1974 lên làm Trung Đoàn Phó với cấp bậc Trung Tá)
Vào những ngày cuối tháng 3 năm 1975 Trung Đoàn 2 được điều động vào Cam Ranh một lần nữa tái chỉnh trang sau mấy ngày được chuyển vào Vũng Tàu đến Vạn Kiếp. Trung Đoàn 2 là đơn vị cuối cùng của Quân Đoàn 1 còn lại tại miền Nam, sau đó được lệnh từ Bộ Tổng Tham Mưu tất cả sĩ quan từ Trung Tá trở lên về trình diện Bộ Tổng Tam Mưu còn từ Thiếu Tá trở xuống thì được tái tổ chức lại Sư Đoàn 3 nhưng công việc tái tổ chức chưa xong thì lệnh tan hàng.
Sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh buông súng chúng tôi bắt đầu tìm cách trở về Huế để tìm vợ con và gia đình vì khi di chuyển theo đơn vị vào Nam gia đình còn kẹt lại tại Huế.
Đến đầu tháng 6 thì bị đi ở tù, trại tù đầu tiên của tôi là trại nằm ở Bà Huyện phía Tây của căn cứ Ái Tử gần căn cứ Phượng Hoàng. Trại 1 gồm các sĩ quan từ cấp Đaị Uý đến Trung Tá, trại 2, 3, 4 gồm các sĩ quan các cấp khác, trại 5 gồm các anh em Hồi Chánh, Nghĩa Quân, Xã Trưởng ... Vào khoảng năm 1978 thì chuyển về trại Bình Điền do Công An quản lý đến năm 1988 thì ra trại tổng cộng gần 13 năm tù.
Đời sống của những ngươì tù ở các trại tù Cọng Sản chúng ta đã được nghe được đọc qua các phương tiện báo chí truyền thông, quả là địa ngục trần gian, không có nơi nào trên thế gian này khổ hơn các trại tù của Cọng Sản, không có người tù nào khổ hơn người tù cuả Cọng Sản.
Chúng tôi thường nói với nhau một cách miả mai vì thiếu ăn nên trong trại tù con gì nhúc nhíc là chúng tôi ăn ngoại trừ con Bù Lon và con bù xít
Về nhà công việc là làm thợ đụng tức là đụng đâu làm đó, ai kêu gì thì làm đó, việc chính là đi làm phụ thợ hồ để có tiền nuôi sống vợ con
Tôi có 5 người con mỗi cháu đều được đặt tên theo những biến cố cuộc đời lính của tôi cháu đầu tiên là Gio Linh khi đó tôi đang đóng quân tại căn cứ A2 thuôc Quận Gio Linh và cháu cuối sinh tháng 5 năm 1975 tôi đang ở trại tù gần căn cứ Ái Tử nên đặt cháu là Ái.
Tôi và gia đình định cư tại Hoa Kỳ HO.19. Bây giờ các cháu đã có gia đình riêng.
Suốt 40 năm qua tôi luôn mang bên mình nỗi buồn mà chắc chắn rằng bất cứ người quân nhân nào của QLVNCH cũng mang nỗi buồn đó là tại sao chúng ta có vũ khí trong tay mà không được chiến đấu. Chúng ta chiến đấu có chính nghĩa, người lính VNCH chấp nhận hy sinh để bảo vệ miền Nam, nhưng những thế lực ngoại bang làm cho chúng ta phải thua cuộc, phải buông súng
Cầu mong những thế hệ kế tiếp, tiếp tục làm tròn trách nhiệm mà cha ông đã làm dở dang. Mong một ngày không xa Việt Nam không còn chế độ Cọng Sản người dân Việt được hưởng Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền như mọi con người trên thế giới./