TẢN MẠN VỀ TÂY NINH
BÍCH PHƯỢNG Paris
Tuy chưa một lần bước chân đến Tây Ninh, một vùng đất quê hương trù phú ở miền Tây Nam Việt Nam, giáp ranh với nước Cao Miên; tuy tôi chỉ biết Tây Ninh qua sách vở, qua mạng lưới truyền thông hay qua những ngòi bút thân hữu hay các văn, thi hữu đã từng viết về Tây Ninh. Trong một ý nghĩa riêng nào đó, tôi cũng tìm thấy ở nơi đây một chút gì thân thương, một chút gì nặng nghĩa trọng tình trong tâm tư của mình. Hơn nữa, quê ngoại tôi là Bến Tre, mà giữa Tây Ninh và Bến Tre quá khứ văn học cho thấy một tình thân hữu liên tỉnh thật đậm đà.
Tây ninh là một trong những tỉnh quan trọng của Việt Nam vì nguồn tài nguyên về nông nghiệp, cũng như lâm sản Tây Ninh chiếm một vị trí địa lý chiến lược quan trọng bảo đảm an toàn các tuyến lộ nối các nước Việt - Miên - Thái. Tây Ninh nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Núi Bà Đen cao 986m là nơi có nhiều truyền thuyết nổi tiếng, ở đây có một bảo tàng được xây dựng trong động Kim Quang và một ngôi chùa cùng tên rất nổi tiếng. Tây Ninh là thánh địa của đạo Cao Đài. Những người theo đạo này thờ Thiên Nhãn. Ngoài ra, họ còn theo đạo Phật, đạo Ki Tô, đạo Lão, đạo Khổng và nhiều đạo khác. Để có cái nhìn rõ hơn về Tây Ninh, chúng ta hãy xét qua những yểu tố sau:
* Địa Lý
Tây ninh cách Sài Gòn 99 tìm về hướng bắc, chu vi dài 214 Km. Phía bắc Tây Ninh tiếp giáp với tỉnh Kompong Cham của Cao Miên, phía Nam giáp tỉnh Hậu Nghĩa, phía đông giáp tỉnh Bình Dương và phía tây giáp 2 tỉnh Prey Veng và Svay Riêng của Cao Miên. Do đó khi nhìn vào bản đồ địa lý thì Tây Ninh có biên giới chia chung với xứ láng giềng Cao Miên khá nhiều. Về diện tích thì Tây Ninh choáng khoảng 3850 Km vuông. Địa thế Tây Ninh quan trọng là vì nằm ngay trên trục giao thông nối liền Sài Gòn sang Miên. Tây Ninh nằm trên địa thế khá cao là 15 mét trên độ cao của mặt biển. Về khí hậu thì Tây Ninh rất nóng, ẩm ướt vào mùa nóng bức, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11.
* lịch sử
Điểm qua về lịch sử thì Tây Ninh là vùng đất của Thủy Chân Lạp, có tên là Romdum Ray, tức Chuồng Voi (Parc aux éléphants) vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dừ như cọp, voi, beo, rắn,.... Những người thổ dân ở đây sống rất thiếu thốn, cơ cực cho đến khi người Việt đến khai hoang làm thành vùng đất trở nên trù phú. Vào thế kỷ thứ 17, cư dân các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngài và Bình Thuận bị thất mùa, nạn đói đe dọa. Họ được khuyến khích di cư nam tiến. Những làn sóng người Việt di cư đến định cư khai khẩn đất đai từ Hốc Môn lên Trảng Bàng rồi qua Gò Dầu lên tận núi Bà Đen. Vì người Việt đến định cư mang theo ngôn ngữ, phong tục, tập quán hay văn hóa khác với người Miên, nên khi người Việt tràn đến đâu thì người Miên tự động lui về hướng tây tức vào sâu sang biên giới nước họ. Khi đó đất Tây Ninh được triều đình Huế sát nhập vào nền hành chánh của tỉnh Gia Định (tức Phiên An Trấn). Khi chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh đuổi bỏ chạy vào Nam, ông chạy lTây Ninh ẩn náu, tìm đường sang Miên, rồi bắt liên lạc cầu viện quân Xiêm trợ giúp đánh lại nhà Tây Sơn. Tuy vậy nhà Tây Sơn đánh bại quân Xiêm. Năm 1789 Chúa Nguyễn nhờ đến viện binh là quân Pháp sang giúp. năm 1802, Chúa Nguyễn Phúc Ánh dẹp xong nhà Tây Sơn và lên ngôi lấy vương hiệu là Gia Long, quốc hiệu là Đại Nam Quốc. Đến thời kỳ vua Thiệu Trị và Tự Đức quân Thủy Chân Lạp hay Cao Miên đem quân sang đánh phá muốn chiếm lại đất đai, Tây Ninh là lãnh thổ tiếp giáp cho sự tranh chấp. Nhưng cuối cùng quân Miên yếu thế thua cuộc bỏ mộng lấy lại đất đai. Trong những trận thư hùng với quân Miên, có những anh hùng Việt Nam đền nợ nước, trong đó quan tri phủ Huỳnh Công Giản mà miếu thờ ông là một trong những chốn di tích ghi công tiền nhân tại tây ninh.
Bài viết "Tây Ninh Quê Tôi" của nhà văn Việt Hải, là nguồn tài liệu tham khảo đã giúp cho tôi có cái nhìn sâu sắc về nhiều khía cạnh của xứ Tây Ninh. Bàn về các món ngon của tỉnh Tây Ninh thì bài viết kể về các món cháo lòng, cháo bồi, thịt heo cuốn bánh tráng và bánh canh. Quê ngoại tôi là tỉnh Bến Tre, cũng có món bánh canh nổi tiếng... nhưng món bánh canh của ngoại tôi nấu có phần khác với hương vị bánh canh của Tây Ninh, mặc dù bột bánh giống nhau. Tô bánh canh của ngoại tôi ngọt nước lèo sền sệt, thơm mùi tỏi hành phi, và đậm đà của màu sắc hột điều phi vàng óng ả... chen lẫn những lát thịt nạc thăn heo, tôm càng luộc chẻ đôi, điểm vào hành ngò xanh. Tô bánh canh ngoại tôi từ Bến Tre và món bánh canh Tây Ninh đều ngon như nhau... Cách nấu ở mỗi miền đều mang một hương vị đặc biệt, mặn mà tình quê hương non nước.
* Văn Học Nghệ Thuật
Tây Ninh có nền văn học phong phú cống hiến rất nhiều cho nền văn chương chung của đất nước chúng ta:
“Đầu thế kỷ 19, khi nền văn học chữ quốc ngữ được phát triển thì nhóm nhà thơ tiền bối Tây Ninh ra đời năm 1915, họ họp nhau lại làm thơ, họa thơ và ngâm thơ. Những nhân vật tiêu biểu là cụ Đốc phủ Tô Ngọc Đường, cụ Hương cả Huỳnh Văn Tâm, cụ Hương lễ Võ Văn Sâm gọi tắt là Võ Sâm là nhưng gương mặt lãnh đạo thi đàn. Cụ Võ Sâm trở thành nhân sĩ đại biểu cho Tây Ninh, cụ cũng là soạn giả biên khảo quyển "Thi Phú Văn Từ" được giới văn học thời bấy giờ trọng nể. Nối tiếp nhóm Thi Đàn của cụ Võ Sâm là Văn Đàn Quốc Biểu của cụ Nguyễn Văn Hiến. Nhóm Quốc Biểu sinh hoạt văn học họp nhau định kỳ mỗi tuần trao đổi văn thơ. Họ họp nhau tại Gò Chẹt tại Tây Ninh. Nhóm này quy tụ khá nhiều thi văn hữu như quý ông: Thanh Vân, Nguyễn Toại Chí, Thanh Phong, Nguyễn Văn Trí, Lâm Tuyền, Võ Trung Nghĩa, Võ Văn Tấn, Sầm Sơn, Nguyễn Văn Vàng, Du Tử, Mai Huê, Lê Văn Thành, Nhà Quê, Dương Văn Kim, Nhất Thiện,... Một trong những sinh hoạt nổi bật là nhóm của quý cụ tiền bối Võ Sâm và Tô Ngọc Đường xướng họa cùng nữ sĩ Sương Nguyệt Anh của tình Bến Tre. Bà là con gái của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu. Nhân dịp xuân tân niên Tân Sửu 1901, làng thơ Tây Ninh tổ chức hội thơ tại Điện Núi Bà hay Linh Sơn Thánh Mẫu, nơi thắng cảnh thiên nhiên rất hùng vỹ, uy nghi, trước những hàng mai trắng đang trổ hoa mừng xuân, nữ sĩ Thụy Khuê Sương Nguyệt Anh cảm tác ba bài thơ mà tôi xin trích hai bài tiêu biểu là "Thường Bạch Mai Cảm Đề" và "Linh Sơn Nhất Thụ Mai" đề tặng làng thơ Tây Ninh để tạ lòng lời mời của các thi nhân nặng tình thi phú Tây Ninh và Bến Tre như sau:
“Non Linh đất phuớc trổ hoa nhân
Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng
Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân
Mây lành gió lạnh nương hơi chánh
Vóc ngọc mình băng hắt khói trần
Sắc nước hương trời nên cảm mến
Non linh đất phước trổ hoa thần.
("Thưởng Bạch Mai Cảm Đề'!)
Và bài thơ Đường bằng hán tự khi xuân về tại Linh Sơn mà nữ sĩ Thụy Khuê cảm tác:
“Quỳnh tư ngọc cốt bản thiên chân
Tịnh độ cô liêu viên tục trần
Noãn nhập ám hương xuân dật từ
Hàn xung sơ ảnh nguyệt tà thần
Tuyết trung tự khước lưu phong vận
Phong ngoại ưng liên đạp tuyết nhân
Thừa hứng mạc hiếm sơn thủy viễn
Đồng lai dữ tử phú dương xuân”.
("Linh Sơn Nhất Thụ Mai")
Bản dịch của thi sĩ Hi Đạm:
“Ngọc quỳnh cốt cách trời ban
Đất tinh trơ vơ lánh thế gian
Ấm áp hương đầm xuân buổi sớm
Lạnh lùng bóng nhạt nguyệt đêm tàn
Nghĩ thân ánh tuyết hơi sương đượm
Thương kẻ hài sương gót tuyết chan
Mến cảnh nước non xa chớ ngại
Cùng lên ngâm vịnh tứ xuân tràn."
(Trích "Tây Ninh quê hương tôi" - Việt Hải)
Tôi cũng biết Tây Ninh đã cho chúng ta một vì Thủ Tướng tài ba lỗi lạc, đó là cụ Bguyễn Văn Tâm (1895-1990), một chính trị gia có tâm hồn nghệ sĩ... Giới văn học biết ông dưới bút hiệu Trương Duy Chánh Đạo với quyển tập thơ văn "Cây nhà lá vườn” hội tụ gần 1000 bài thơ văn... trong đó có một bài thơ mà ông dung thi bút họa lại cảnh đẹp tuyệt sắc của núi Linh Sơn:
..."Núi linh sơn cao ngất trời xanh
Chót von von đeo mây bạc mấy từng...
Ngưởng trông lên kìa Phật tự Linh San
Khói nghi ngút dường Lôi Âm dị thế
Thạch động mấy tầng cao chất ngất
Phủ tứ bề năm sắc mây lành... "
(Trích "Non thiêng cảnh lịch - T.D.Chánh Đạo, 1 942)
Nói đến thi ca Tây Ninh có lẽ không thể bỏ qua bài thơ danh tiếng là "Tha La Xóm Đạo” của thi sĩ Vũ Anh Khanh, đã gợi cho ta một tình hoài hương, một nỗi buồn man mác ấp ủ đầm sâu:
“Đây Tha La xóm đạo,
Có trái ngọt, cây lành.
Tôi về thăm một dạo,
Giữa mùa nắng vàng hanh,
Ngậm ngùi, Tha La bảo:
- Đây rừng xanh, rừng xanh,
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh,
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
Viễn khách ơi! hãy dừng chân cho hỏi
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng..."
Hay trong bài thơ "Tha La ngày trở lại" thiết tha nỗi niềm tâm sự của nhà thơ Lâm Thanh:
“Hăm lăm năm không gặp,
Từ thuở em chưa chồng,
Anh xứ người mê mãi
Tình xa hơn biển Đông.
Năm xưa mình ngây dại
Hẹn nhau bóng giáo đường.
Thiên đàng vừa mở cửa
Tim đỗ những hồi chuông.
Anh tay dài cánh hạc
Run run vuốt vai tròn
Em thần thờ... khẽ nói:
“Tay anh! cánh thiên thần"
Em tóc mềm lụa rũ
Phủ dịp nắng chiều hanh,
Mắt rưng buồn khép lững
Nhốt trọn bóng trời xanh.
Anh khờ hơn đà điểu
Chúi đầu trong tóc em
Mong trong đời dông bão,
Nhưng đời vẫn tối đen..."
"Tha La" là một địa danh nổi tiếng được hầu như mọi người Việt Nam biết đến qua hai ca khúc trữ tình, bài “Hận Tha La” của nhạc sĩ Sơn Thảo và bài "Tha La Xóm Đạo” của nhạc sĩ Dzũng Chính. Tha La, một phần đất của quận Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh, là nơi đã chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh, bao cảnh biệt ly tang tóc.
Thi sĩ Đông Tửu đã viết một bài thơ vinh danh người mẹ Tây Ninh. Đây là bài thơ dài, mà tôi xin mạn phép giới thiệu:
“Tây ninh ơi! Đất mẹ hiền ơi!
Cho tôi gửi trăm lời thương nhớ.
Nhớ mùa trăng cũ nên thơ
Nhớ khi dáng mẹ sớm trưa tảo tần
Nhớ dòng sông có tần tắm mát
Thương câu hò ai hát trong đêm.
Đất nghèo nắng gió triền miên
Mưa về tưới mát, xanh lên cây đời.
Kiếp bôn ba, ai người cùng khổ
Xin nhớ về đất tổ quê cha
Để nghe chuyện kể của bà
Yêu hơn tiếng mẹ chan hòa ru con.
Giòng thời gian sớm còn, tối mất
Tình nhân loại thơm ngát đời đời
Mùa thu trăng đẹp tuyệt vời
Mặt người con gái sáng ngời gương trong.
Quê hương tôi miền đông đất đỏ
Rừng cao su trước gió hiên ngang
Bao năm cách biệt quê làng
Như con chim nhỏ cánh dang giữa trời.
Nắng thu sang, lá rơi thềm lá
Mẹ chờ con héo cả tim xanh
Nhọc nhằn giấc ngủ năm canh
Gối bông trăn trở, long lanh lệ đầy.
Hoa phượng nở tô ngày hạ thắm
Ve kêu vang đằm thắm chiều tà
Quê hương tiếng gọi thiết tha
Ấu thơ, nay đã phần ba tuổi đời.
Tôi lại đi những nơi xa lạ
Gót chân mòn sỏi đá trường chinh
Đôi chân càng luyện, càng tinh
Chí cao muôn trượng, vẹn tình nước non.
Mẹ quê ơi, mỏi mòn bóng khế
Ngày trở về biết mẹ còn không ?
Âm thầm đau ở cõi lòng
Máu tim thôi đã cạn dòng, còn đâu...?
Sông vàm cỏ nhuôm màu sương tuyết
Bạc má đầu ai biết cho ai ?
Núi cao, biển rộng, sông dài
Lòng đi... đi mãi, không phai chữ sờn.
Lòng nhân nghĩa mạnh hơn lửa thép
Dạ anh hùng một kiếp quang vinh.
Hôm nay, xin gửi Tây Ninh
Trái tim chung thủy, thắm tình quê hương.
Ngựa không cương trăm đường lạc lối
Người ly hương bao nỗi đoạn trường
Nhìn về cuối nẻo đông phương
Bình minh lấp lánh, vẽ đường ta đi.
Đất khô cằn nuôi chí bình sinh
Nung huyết mạch rắp thành nhựa sống...
Tàn đông nắng tắt bên sông
Xuân xanh một cõi, rượu hồng ai nâng ?”
(Trích "Gửi mẹ hiền Tây Ninh"- Đông Tửu)
Mùa xuân mới lại về với Tây Ninh qua câu thơ cuối cùng khi thiên nhiên bên ngoài tươi tắn, khi Xuân về không gian mênh mông xanh màu lá mạ trên quê xưa, và bên ngoài quê hương rượu hồng khi ta vui nâng ly chào đón ngày hạnh ngộ của người ly hương hướng về vùng đất cũ. Trong nỗi niềm như vậy, bài viết này tôi xin gởi tặng đến hội đồng hương Tây Ninh tại Hoa Kỳ, hay tên đứng là Tây Ninh Đồng Hương Hội, có hai nhà văn mà tôi hân hạnh được quen biết là Trần Anh Dũng và Trần Việt Hải. Và lời cuối xin chúc mừng ngày vui họp tân niên của các thân hữu đồng hương Tây Ninh tại Mỹ. Mừng Xuân thật sự đến với mọi người, mọi đồng hương Tây Ninh.
Bích Phượng Paris