QUẢNG NGÃI THƯƠNG NHỚ
HỒ QUANG
Bản thân tôi không phải được sinh ra từ vùng đất ngọt mùi mía đường Quảng Ngãi. Khi vào đời lập thân, Nguyệt Lão thương tình cột chặt sợi tơ hồng, khiến tôi không thể nào dứt ra được với cô gái miền cửa sông Phú Thọ. Không biết người đời: “yêu người yêu luôn xứ sở người thương...” có đúng hay không? Riêng với tôi, thì chuyện luyến mến quê vợ chắc là đúng quá đi rồi! Cả một dải đất miền Trung Việt Nam, có ai không biết, và không thuộc nằm lòng bốn tỉnh: Nam, Ngãi, Bình, Phú. Đây chỉ là cách nói tắt tên các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên mà thôi. Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định như luôn có dan díu, mắc mứu với nhau, nếu không thì làm gì đã có bài vè:
Quảng Nam hay cãi
Quảng Ngãi hay co
Bình Định hay lo
Thừa Thiên xực hết
Tôi là dân Quảng Nam, không thể không thừa nhận chuyện thích cãi chày cãi cối này, ngay chính mình lắm khi cũng còn phải bực mình cho bản tính người địa phương của mình nữa, huống chi là người khác tỉnh. Trật cũng cãi mà trúng cũng cãi luôn, không chịu thua ai hết mới chết cho chứ! Có lẽ người Quảng Nam đa phần họ thích như vậy mới thấy vui chăng?
Về làm rể quê hương Quảng Ngãi, mặc dầu chỉ cách nhau lằn ranh biên giới Dốc Sỏi (cuối nam Chu Lai), tôi lại càng kinh ngạc hơn, quê vợ của tôi không kém chuyện thích vui vẻ này. Chữ “co” trong nghĩa nôm không phải "co ro", “co rút” mà là sự kỳ cựa, dùng dằn, không bao giờ chịu khuất phục, chịu thua. Chỉ tội nhất cho người xứ Bình Định, họ là những người mộc mạc, thích cuộc sống yên bình, lại cách trở, xa xôi với kinh đô Huế, do hình thế địa lý này mà người dân thường hay né tránh chuyện kiện cáo, luôn nghĩ mọi việc va chạm trong cuộc sống nếu có, phải áp dụng cách “dĩ hòa vi quí” là tốt nhất. Lỡ gặp kiện, kẻ hưởng lợi trong mọi tranh chấp giữa các yên hùng thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đều dồn hết về Thừa Thiên! Ở đây có vua, có các quan thượng như đại thần xét xử, không còn tòa án nào khác cao hơn... Khổ nỗi, khi nhà vua đứng ra xử một vụ kiện thưa, nếu đó là việc thuộc tỉnh Quảng Nam, hay thuộc tỉnh Quảng Ngãi, việc sẽ gặp nhiều rắc rối, vì, có vị đại thần nào lại không bênh vực cho chuyện của địa phương mình đâu? Quảng Nam, Quảng Ngãi thì thời nào cũng có đại thần. Riêng Bình Định, lâu lắm mới có được một người đỗ cao, mới được nhà vua truyền chỉ tuyển dụng, nhưng cũng ít khi nắm giữ quyền bính lớn kiểu "tiền trảm hậu tấu” như cụ Cần Nguyễn Thân (Quảng Ngãi). Năm 1851, dưới thời vua Tự Đức, vì đường sá xa xôi, nhà vua cho tổ chức những khoa thi Hương tại Bình Định thì người Quảng Ngãi trúng thủ khoa, nhưng ba khoa thi Hương kế tiếp, người Bình Định lại chiếm vị thủ khoa, do đó các cô gái trong vùng trách yêu:
Tiếc công Quảng Ngãi đường xa
Để cho Bình Định thủ khoa ba lần
Sự cằn cựa giữa các đại thần Quảng Nam, Quảng Ngãi, để rồi cũng từ cách mách nước bằng "chạy chọt", bằng hối lộ, bằng "luồn lách" của các đại quan nay mà các vị cận thần với vua tại Huế (Thừa Thiên) được hưởng hết lợi. (Thừa Thiên xực hết. Có nơi nói nặng hơn: Thừa Thiên ních hết).
Kể lại chuyện trên người viết không ngoài ý dẫn chứng gì không riêng gì chỉ có đất Quảng Nam mới được gọi là nơi "Địa Linh Nhân Kiệt" mà đất Quảng Ngãi cũng “Địa Linh Nhân Kiệt" vậy!
Tại xứ người, với cuộc đời lưu vong, nhưng mỗi khi nhìn thấy lon mạch nha, hộp kẹo gương, tôi lại nhớ đến quê hương thân thương của vợ tôi. Nhiều lúc thèm ăn một tô “gion” nóng, đầy mùi thơm đặc biệt phưng phức, thêm vào đó là mùi nồng cay của hương vị ớt tươi của các tô gion Thu Xà, tô gion Cổ Lũy, tô gion Phú Thọ, Thổ An... (cay hơn cả bún bò Huế đúng cách), là vợ tôi phải ra chợ mua hộp “Clams” về sao chế thành “gion” Phú Thọ vậy (tô gion nóng, bẻ bánh tráng mè nướng bỏ vào), tuy không giống hệt hương vị quê hương mấy, nhưng cũng cảm thấy được chút ít tình hương quê rồi. Hớp một ngụm nước gion, thở ra là nước mũi tuôn theo, nước mắt trào ra, mặt mày đỏ gay vì kèm lại cái ho sặc sụa... nhưng rồi phải mỉm cười vì câu hát:
Có nghèo, có khó nhớ ráng lấy cho được con vợ đi bán gion
Lỡ mai sau nó chết, mình cũng còn lại cặp ui...
Người đi bán gion thường dùng “ui” để chứa (một thứ hũ bằng gốm, giữ nhiệt rất tốt). Hoặc để ca tụng món ăn độc đáo này, người dân Vạn Tượng thường dí dỏm:
Cô gái lòng son, không bằng tô gion Vạn Tượng
Sống tại Quảng Ngãi, tuy không phải là nơi phồn hoa đô hội, nhưng đến đó rồi, bạn cũng khó tránh nhiều vướng víu, không phải:
Ta về bậu chẳng cho về
Bậu níu tay áo mà đề vài câu
Mà là không thể không tìm đến các hàng quán để thưởng thức cho bằng được các bảo vị:
Chim mía Xuân Phổ
Cá bống Sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch tha Thi Phổ...
Quảng Ngãi thuộc phía nam Quảng Nam, vùng đất mở rộng dần bề ngang về phía cuối nước Cà Mau. Các sông thuộc miền Trung đều xuất phát từ dãy Trường Sơn, chảy qua vùng đất ngắn hẹp để đổ ra biển Đông. Quảng Ngãi có bốn con sông chính, phân chia phần đất trù phú này thành 6 mảnh. Sông Trà Khúc không những là sông lớn nhất mà còn là nơi biểu hiện mạnh nhất cho văn hóa của tỉnh. Trình độ văn minh của cư dân dọc theo hai bên bờ sông thường cao hơn những nơi khác. Sông dài khoảng 120km. Toàn vùng đất này xưa thuộc Chiêm Thành, nên chữ "Trà" (Java) cũng phát xuất từ “họ trà” người Chiêm.
Các họ của người Chiêm Thành, chúng ta thường nghe đó là: Ôn, Ma, Trà, Chế... Trong lịch sử Chiêm Thành, năm 1470, vua Trà Toàn đem quân ra đánh Thanh Hóa. Vua nước ta là Lê Thánh Tôn cho quân đánh trả và truy kích ráo riết. Trà Toàn không thể địch lại, đành phải rút chạy tận về phía Nam, bỏ cả kinh thành Champa. Những vùng đất vừa mới chiếm được này, vua Lê Thánh Tôn cho lập đạo Quảng Nam, ngày nay là 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Đèo Cù Mông là biên giới Đại Việt - Champa lúc bấy giờ.
Từ Quảng Nam đi vào, đến tả ngạn sông Trà Khúc, dọc theo tỉnh lộ về hướng Mỹ Khê khoảng cây số, ta thấy bên trái một tháp núi vuông thật hùng vĩ, đó là núi Thiên Ấn, đỉnh núi bằng phẳng, đặc biệt núi này có một cái giếng rất sâu, nước ngọt, trong, tinh khiết, đun sôi dùng pha trà để uống thì tuyệt, không nơi nào sánh bằng. Phía Nam của đỉnh Thiên Ấn là nơi an nghỉ của nhà chí sĩ người Quảng Nam Huỳnh Thúc Kháng. Vượt qua cầu Trà Khúc, dải đất khu vực hữu ngạn, là thị xã Cẩm Thành, cũng là tỉnh lỵ, và là trung tâm thương mại của toàn tỉnh, nằm ngay, trải dài hai bên quốc lộ 1. Sản phẩm từ các huyện được chuyển về đây trao đổi, cũng như các vùng khác tìm về mua bán. Cả miền Trung, thị xã Quảng Ngãi chỉ có thể sắp hàng thứ nhì sau Đà Nẵng mà thôi.
Ai mới đến thị xã cũng thường nghe các cụ ngâm nga:
"Thiên Ấn niêm hà, Thiên Bút phê vân" là hiểu ngay lòng ngưỡng mộ, cách ca tụng, sự tự hào về hai danh lam thắng cảnh của quê hương Quảng Ngãi của họ! Núi Bút nằm ở vị thế tận cùng Nam của thị xã, núi không cao và hùng vĩ như Thiên Ấn nhưng có nét thanh nhã của những văn nhân. Đài cát, nhẹ nhàng, trinh trắng như những nàng công chúa trong các truyện thần tiên. Có lẽ trung tâm thể hiện văn hóa của cả tỉnh nằm gọn trong khu vực hai ngọn núi này: Phía Bắc có Thiên Ấn, phía Nam có Thiên Bút, giữa là giòng sông nên thơ Trà Khúc chăng?
Để thay cho phần kết luận người viết xin được viết về một nhân vật lịch sử vào giai đoạn cuối thế kỷ 18 đã được sinh ra tại lòng của hai ngọn núi linh thiêng: Ấn, Bút. Một con người bất khuất, không xu thời, bằng mọi giá phải thực hiện cho bằng được ý nguyện của mình - danh nhân Trần Công Hiến.
Trần Công Hiến người huyện Chương Nghĩa (Tư Nghĩa ngày nay), thuở nhỏ nhà nghèo, nhưng vẫn cố đeo đuổi việc học hành. Vì cha mất sớm, một mình vừa lo nuôi mẹ rất chí hiếu, vừa lo đèn sách. Vận mệnh một tài hoa không may gặp phải buổi xế chiều, Chúa Nguyễn đang trên đà suy vong. Tuy biết vậy, nhưng ông không chịu về cộng tác với Tây Sơn, quyết giữ trọn tiết tháo của một nhà Nho: “Trung thần bất sự nhị quân", nên thường qua lại các vùng rừng núi miền Trung chiêu tập nghĩa binh chống lại Tây Sơn. Trước sức truy diệt hùng mạnh của binh đội Nguyễn Nhạc, nghĩa binh của ông phải thất bại rồi tan rã. Mãi đến năm 1793, Trần Công Hiến trốn vào Nam theo giúp Nguyễn Ánh. Năm 1802,
sau khi thu phục lại giang sơn, Vua Gia Long giao cho ông làm trấn thủ Hải Dương. Năm 1803, ông lại dược thăng lên chức Chưởng Cơ, rồi nhà vua phong làm Ân Quang Hầu. Ông là một đại quan thanh liêm, am hiểu sâu rộng cả hai mặt chính trị cũng như kinh tế, và rất được mọi người dân trong hạt kính trọng. Vốn là người hiếu học, ngoài việc quan, ông
còn soạn sách “Đại Việt Thủy Lục Trình Ký” bằng quốc âm, trong đó ông ghi lại tất cả những điều chính mình đã tai nghe mắt thấy. Ông mất năm 1817, năm mà ông vẫn còn đang độ sung sức trên bước quan lộ.