NGHỆ THUẬT THỜ
ĐÁ THIÊNG XỨ KINH BẮC
THANH AN
Xứ Kinh Bắc, mảnh đất thân yêu, đã để lại nhiều di tích văn hoá cổ của thời đại xa xưa mà tiêu biểu là nghệ thuật thờ đá thiêng.Theo tín ngưỡng Đông phương, chúng ta thường gặp một số nhân vật phi thường nhuộm màu huyền thoại hoang đường được sinh thành từ các hòn đá. Tiền thân cậu ấm Bảo Ngọc trong tác phẩm Hồng Lâu Mộng là hòn đá Nữ Oa đánh rơi bên sườn núi Thanh Ngạnh. Tôn Ngộ Không, kẻ đại náo Thiên cung, đồ đệ phò tá đắc lực Đường Tăng trong chuyến đi thỉnh kinh của Tây Du Ký cũng là linh khí của hòn đá thần thông kỳ diệu... Rồi những truyện dân gian về một bà mẹ nào đó ướm thử vết chân lên đá bỗng thụ thai...Với vùng văn hiến Kinh Bắc, đá được xếp vào hàng thượng đẳng linh thần và được phụng thờ từ thời Hùng Vương xưa. Kẻ hiền sĩ cao ngạo thấy xa giá thiên tử có thể không chịu cúi đầu vái lạy, nhưng qua rừng núi ngẩng lên thấy đá đẹp, vội quỳ mọp tỏ lòng kính ngưỡng. Tổng thể ngũ hành trải qua hàng ức triệu năm văn trơ gan cùng tuế nguyệt.Người Việt Nam mỗi thời đại gửi gắm vào một số vật thể những tư tưởng, tình cảm, ý niệm triết học, thẩm mỹ sâu xa. Những nơi thờ đá thiêng đều gắn với các huyền tích, thần tích và phật tích.Tại làng Tiên Lát Hạ (Vĩnh Yên, Hà Bắc), dân gian truyền tụng rằng: một đêm mưa to gió lớn, hòn đá khổng lồ bị đẫm nước vỡ ra ba mảnh. Giữa những tảng đá, một đứa trẻ khóc oa oa, được dân làng mang về nuôi. Thạch Linh lớn nhanh như thổi, sức khoẻ phi thường và có công dẹp tan giặc ngoại xâm. Sau chiến thắng, ông thăng hoá trên đỉnh núi Tiên Lát Thượng. Thạch Linh thần tượng được thờ trước Thánh Gióng khá lâu, nhưng nội dung hai sự tích có những nét na ná giống nhau.Không còn nghi ngờ gì nữa, việc thờ ba mảnh đá sinh Thạch Linh thần tượng không ngoài mục đích thờ tam tài Thiên, Địa, Nhân. Có thể gọi Giếng Thánh, Ao Thần và Đá Thiêng ở Tiên Lát Hạ là một sáng thế ký, một đài kỷ niệm sự khai mở, tạo lập vũ trụ và con người. Hành động thăng hoá của Thạch Linh chính là sự trở về cội nguồn bản thể theo qui luật “cát bụi hoàn cát bụi”.Qua việc thờ đá thiêng, có thể nói người Việt sớm am tường nghệ thuật phối cảnh kiến trúc trên bình diện hoành tráng; và quần thể chùa Bồ Đà nổi bật giữa vùng chiêm trũng và dòng sông Cầu thơ mộng phải chăng là cách chơi non bộ độc đáo và vĩ đại của dân tộc trước cửa ngõ phía bắc của kinh đô Long Biên?Đối diện không xa với Tiên Lát Thượng là làng Viêm Xá thờ đá thiêng với tín ngưỡng âm dương phồn thực. Tám phiến đá nhám bản địa, mỗi phiến nặng vài tấn, được đẽo gọt vuông vắn chia làm hai: bốn phiến xếp nổi ở bến Ông, bốn phiến xếp lập lờ ở bến Bà. Tám phiến đá gợi liên tưởng bát quái của kinh Dịch.Giữa làng Ngọc Hành có hai di tích đá: Từ Vũ và Thạch Sàng. Đá ở đây được mang từ nơi khác đến, thuần một loại xanh biếc. Thạch Sàng là giường đá mà Khâu Đà La loa thiền. Từ Vũ, chiết tự văn bia có nghĩa là “vũ trụ thiêng” hay “không gian thờ”. Các phiến đá có hình thù rồng, sấu, voi, hổ, mâm bồng, hoa lá, sập đá... sơ chế theo lối phác thảo, gợi ý. Đá thiêng Phù Linh kích cỡ khác nhau: có phiến dài hơn sải tay, có phiến rộng vài thước, có hòn cao quá đầu người. Không phải không có lý khi có người nhận định Từ Vũ là di chỉ của chủ nghĩa tượng trưng.Thực chất Từ Vũ thờ Phật Thạch Quang, con đẻ của Man Nương và Khâu Đà La. Nó đánh dấu sự hội nhập của đạo Phật (cụ thể là Thiền Mật) với tín ngưỡng dân gian bản địa ở Việt Nam vào thế kỷ thứ II.
Vãn cảnh chùa Đạm (Quế Võ), nơi Nguyên phi Ỷ Lan triều Lý đã dốc tâm lực trùng tu, người ta được tận mắt chiêm ngưỡng cội đá chạm rồng tinh xảo và qui mô. Tác phẩm này là biểu tượng Lin-ga (sinh thực khí), ảnh hưởng Chàm. Những dịp lễ hội, dân làng treo đèn lồng, cắm cờ đại bên cột đá, thắp hương cầu cho phong đăng hoà cốc, loài người sinh sôi...
Các di tích thờ đá thiêng xứ Kinh Bắc đã chứng tỏ chiều sâu văn hoá đa dạng, phong phú của dân tộc Việt đồng thời góp phần tô điểm cảnh quan môi trường sinh thái của con người.
Biến cố Tết Mậu Thân xảy đến như một đại họa cho dân làng Bao Vinh. Bà con, đồng bào ở xa đổ xô về đây, tưởng đâu Bao Vinh yên lành. Không dè Bao Vinh đang thoi thóp trong vòng dây nghẹt thở của Cộng Sản trong một tháng trời. Bao nhiêu tang tóc khổ đau người dân phải chịu đựng, tuy vậy vẫn không ai chịu rời Bao Vinh. Đời sống dân làng gắn liền với Bao Vinh như nắm ruột đứa con gắn liền với mẹ.
Lâu lắm rồi, thể xác tôi bên này nhưng tâm hồn vẫn hướng về làng cũ với bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Ôi Bao Vinh thân thương, nhớ biết mấy làng xưa xóm cũ!
Biết đến bao giờ mới được trở lại với Bao Vinh.