Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

MỘT THỜI XA XƯA

 

NGUYỄN TẤN HƯNG

 

Ngày Hùng sinh ra là ngày chiến tranh chấm dứt, trên cả thế giới này. Hùng ra đời như một vì cứu tinh cho nhân loại. Hùng hay đùa với mình như vậy. Thật ra cũng có chút trùng hợp vì Hùng sinh vào năm cuối cùng của thế chiến thứ hai. Rõ hơn, Hùng sinh nhằm ngày “Chiến Thắng Âu Châu”, ngày Hitler đầu hành Đồng Minh. Mặc dù mãi sau này Hùng mới biết. Nhưng thời đó, thời Hùng mới lớn, thời con ruộng vườn rong chơi, cuộc đời con người như còn cái ý nghĩa của hai chữ “thanh bình”. Thời đó là thời đình chiến. Thời đó là thời đình chiến. Thời đó là thời miền Nam Việt Nam còn chia làm hai mươi mốt tỉnh, đẹp như một bài thơ làm Hùng dễ nhớ :

Gia Châu Hà Rạch Trà,

Sa Bến Long Tân Sóc,

Thủ Tây Biên Mỹ Bà,

Chợ Vĩnh Gò Cần Bạc, Cấp.

Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh. Sa Đéc, Bến Tre, Long Biên, Tân An, Sóc Trăng. Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa. Chợ Lớn, Vĩnh Long, Gò Công, Cần Thơ, Bạc Liêu. Và Cấp tức Vũng Tàu. Sau này, mấy ai biết có bao nhiêu tỉnh ở miền Nam. Nhiều tỉnh đổi thành quận, nhiều quận đổi thành tỉnh, nhiều tỉnh bị đổi tên xóa tên trên bản đồ và củng có nhiều tỉnh mới mọc lên. Thoạt đầu nghe không hợp tai, Thủ Dầu Một ra Bình Dương, Bến Tre ra Kiến Hòa, Mỹ Tho ra Định Tường... nhưng nghe riết rồi cũng quen. Mấy lần đóng quân miệt Trà Cú, Đức Hòa, Đức Huệ, Hùng có dịp chọc mấy thằng bạn bản xứ :

- Hậu Nghĩa, Kiến Tường... cái tỉnh sanh sau đẻ muộn của tụi mày có cái tên mới nghe đã thấy bần cố nông rồi, làm sao mà so sánh với những tỉnh có bốn ngàn năm văn hiến như Mỹ Tho, Cần Thơ của tụi tao được.

Mà thiệt tình, tỉnh Mỹ Tho của Hùng xưa nay vẫn là một tỉnh có tiếng và cũng là tỉnh duy nhất ở miền đồng bằng có đường rầy xe lửa đi Sài Gòn. Có cái hay ở chỗ đó mà rồi cũng bị nhà Ngô gỡ đi.

Mấy ngàn năm văn hiến đâu không thấy nhưng di tích cổ nhứt có lẽ là chùa Vĩnh Tràng, một công trình kiến trúc thẫm mỹ được xây cất vào khoảng 1840-1842, thời Minh Mạng. Chỉ có vậy thôi, những khu khác như khu Vườn Lài, Chợ Cũ, Bến tắm ngựa, Chùa Chà Dà, Cầu quây, Bến đò ty công an, chùa Phật Ân, Nhà thờ lớn, Bắt tam băng, Đài chiến sĩ, Lò heo, Cây xăng, Cầu bắc, Đất thánh Tây, Bót số tám, Bến xe mới, Bến xe cũ, Vòng nhỏ, Vòng lớn...cũng đâu có gì đặc biệt. Họa chăng là hai cái giếng nước. Đúng vậy, không có thành phố nào ở miền Nam mà có một giếng lớn như vậy. mà tại sao không gọi là hồ như hồ Chung Thủy bên Bến Tre chẳng hạn. Hồ nghe lớn hơn giếng nhưng đằng này giếng lớn hơn hồ, trường hợp ngoại lệ. Giếng chắc cũng lâu đời, có lẽ được đào lúc tỉnh mới thành lập, thời đức tả quân Lê Văn Duyệt xây thành Định Tường, thành Nam Vang. Giếng chứa nước ngọt cho cả thành phố trong mùa gió nam vì nước biển ngược dòng Cửu Long len lỏi vào tận đây. Mùa nước ngọt chẳng ai thèm để ý, qua mùa nước mặn mới thấy mực nước giếng thấp dần thấp dần. Khoảng mười năm giếng nước được tu bổ sửa sang một lần, lẽ dĩ nhiên trong mùa nước ngọt. Nước được bơm ra và giếng được phơi khô. Một màn bắt cá cạn, mò ốc gạo, nghêu sò, ... rồi mới tới công tác đào giếng, đào sâu thêm để chứa thêm nước. Giếng trở thành một mỏ than lộ thiên và công nhân làm đất nhun nhúc như bầy kiến đất. Đào một hai thước mà mất đôi ba tháng, xong xả nước vô, đôi ba tháng sau nước vẫn còn hôi mùi bùn, vị chi phải mất nữa năm giếng mới trở lại tình trạng bình thường...

Dân chúng sống xung quanh giếng được quyền xài nước giếng nhưng không được tắm giếng. Cảnh sát bắt. Ngoại trừ đám học trò, nhứt quỷ nhì ma, đã mang danh là hàng thứ ba thì dù cảnh sát có rượt, học trò có chạy, lâu lâu cũng phải tắm giếng trưa trước khi đi học hay cũng tắm giếng chiều trước khi đi phố. Và nói đến  học trò thì phải kể đến trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, cũng lâu đời, có lẽ chỉ sau trường Bưởi ở Hà Nội và trường Pétrus Ký ở Sài Gòn về phương diện thâm niên. Cũng là điểm đáng nhớ, đáng thương, bảy năm trung học từ đệ thất đến đệ nhất thì biết bao là tình. Bộ quốc gia giáo dục năm nào mà không chọn bài đề nghị của giáo sư Ất để làm đề thi ... Rồi đến cồn phụng của ông Đạo Dừa, mặc dù mới lập cũng ghi lại nhiều kỷ niệm.

Tỉnh Mỹ Tho có năm quận Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Bến Tranh và Chợ Gạo. Trong năm quận, quận Chợ Gạo có lẽ là quận nhỏ nhứt, nghèo nhứt. Nhìn cái nhà lồng chợ thì đủ biết, chỉ lớn bằng hai cái đình. Năm quận nằm dọc theo sông Tiền Giang và hình như càng xa ra biển dân cư càng nghèo. Con gái lấy chồng về miệt gần biển này thì bị chê, lấy chồng đi lên chứ ai lấy chồng đi xuống. Mình lỡ sinh ra trong vùng này thì cũng mắc tội lây, cõng nghèo đem liệng vô bưng, cong lưng vụt chạy ê ... ê đừng chạy theo. Rồi cũng chạy theo. Nhưng có lẽ nhờ cái nghèo mà học trò vùng này lại có tiếng học giỏi ... Cho đến vùng giáp ranh với tỉnh Gò Công, vùng Hòa Đồng, Chợ Dinh mới thấy dân cư đông đúc, đời sống trù phú trở lại. Phần lớn bà con bên ngoại, mấy cậu, mấy dì của Hùng ở vùng này.

 

Đố anh con rít mấy chân

Cầu Ô mấy nhịp, Chợ Dinh mấy người.

Mấy người bán áo con trai,

Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim.

 

Chợ Dinh đông người chen chân như chân rít? Còn Cầu Ô có phải là cầu đen nằm giữa Đồng Sơn và Chợ Dinh? Cầu sơn đen, sau này còn kêu là Cập Sập, bởi vì bị Việt Minh giựt sập. Và tại sao bán áo con trai, bán chỉ bán kim ?

Quận Chợ Gạo được chia làm năm xã Hòa Định, Bình Phan, Bình Phục Nhứt, Bình Phục Nhì và An Thạnh Thủy. Ngoại trừ xã An Thạnh Thủy giáp ranh với tỉnh Bến Tre, còn bốn xã kia nằm dọc theo kinh Chợ Gạo, con kinh nối liền miền Tiền Giang và Sài Gòn qua kinh Nước Mặn miệt Gò Công và sông Lòng Tào miệt Vũng Tàu. Nói đến kinh Chợ Gạo thì phải nói đến phà Chợ Gạo trên tỉnh lô 35 Mỹ Tho Gò Công, loại phà kéo tay, loại phà đôi khi làm trở ngại lưu thông cả hai đường, đường thủy lẫn đường bộ. Mỗi lần tàu tới, phải xả dây cáp chìm xuống đáy cho tàu qua, thắng tàu không ăn lắm nên tàu có quyền ưu tiên. Còi súp lê báo động từ đàng xa và nhân công kéo phà phải nắm chừng vận tốc của tàu mà làm việc. Nhiều lúc ước lượng sai, phải xả dây cáp khẩn cấp khi phà đang ở giữa dòng, người và xe lênh đênh trôi dạt vào bờ cả tiếng sau mới về được bến. Mãi đến lúc sắp về nước công binh Mỹ mới cất được cầu Chợ Gạo. Thật là tiện lợi, xe qua cầu mặt dầu cũng phải đóng tiền nhưng không phải chờ đợi, tàu ghe dưới kinh qua lại cũng không cần phải hạ cột buồm vì móng cầu thật cao. Chỉ tội cho bến phà, bị bỏ quên, trở thành im lặng hoang vắng cùng chung số phận với hai cây “cột dây thép” lẻ loi buồn tẻ sừng sững bên trời. Dấu vết của Tây để lại. Dọc hai bờ kinh Tây cũng làm lộ, lót đá ong hoặc đá đỏ cho xe chạy. Đến lúc Việt Minh nổi dậy thì lộ bị cắt, cầu bị sập, dần dần con đường lớn biến thành đường mòn, rồi nhiều đoạn mất hút trong rừng cây.

Hùng sinh ra ở xã Bình Phục Nhứt. Muốn tới xã chỉ có hai đường, đường thủy bằng kinh Chợ Gạo, đường bộ bằng con lộ đá đỏ xuất phát từ tỉnh lộ 35, còn con đường dọc theo bờ kinh thì dành riêng cho Việt Cộng. Nếu đi đường bộ, độ nửa chừng lộ đá đỏ, thì ai cũng ngạc nhiên vì hai tòa nhà đồ sộ mọc lên giữa đồng, nhà có hồ tắm trên sân thượng có cái tục danh là lầu-cô-tám-cô-chín. Cô Tám, cô Chín có chồng Tây đã về Tây mấy mươi đời Tây rồi, thành thử lầu-cô-tám-cô-chín bơ vơ hoang vu sụp đổ bây giờ chỉ còn là chỗ nghỉ chân của mấy đám chân trâu. Mấy lần ba má Hùng bao xe ngựa về thăm quê trong dịp tết, cuối thập niên 50, Hùng cảm thấy bùi ngùi mỗi khi đi ngang qua đây. Giá như tây không bị bại trận, vùng này chắc được mở mang kiến thiết dữ lắm.

Không hiểu ba má Hùng di chuyển về xã Bình Phan vào năm nào, chỉ biết rằng ông nội Hùng muốn ba Hùng về đây lập nghiệp, nối nghiệp ông về đây làm nghề “trại cây”. Trại cây của ba Hùng cất tại Cầu Sắt cách chợ quận khoảng một cây số. “Phi thương bất phú”, ông nội Hùng lập đi lập lại câu nói này hoài. Ba má Hùng cất trại không bao lâu thì gia đình bà cô Hùng cũng dọn theo, nhưng về chợ quận, cất nhà mở tiệm trên miếng đất mà ba Hùng mới sang. Coi như không. Không ngờ cửa tiệm của cô Hùng phát đạt nhanh chóng và từ từ trở thành cửa tiệm lớn nhất trong chợ quận, lầu lên hai ba từng. Cô Hùng giàu, nhưng đám cháu chắc như Hùng cũng chẳng nhờ vả được gì. “Giàu cha giàu mẹ thì ham, giàu cô giàu chú ai làm nấy ăn”. Vả lại cô Hùng đông con lắm, mười lăm mười sáu đứa. Đẻ đến đứa thứ mười không còn đặt tên nữa, cứ kêu số, mười, mười một, mười hai ... cho đến không biết mười mấy thì bắt đầu đặt tên trở lại, Bích Vân, Bích Thủy. Ba Hùng không giàu được là tại vì ông bán chịu nhiều quá, bán chịu khắp cả làng, khắp cả quận. Tối ngày chỉ việc đi đòi nợ cũng hết thì giờ. Rồi dần dần bị kẹt vốn không phát triển được. Nhiều trại cưa máy nổi lên, trại mình còn cưa tay thì làm sao mà cạnh tranh được. Tuy vậy chỗ làm ăn lâu cũng có cái tình, bà con trong xã cũng còn lui tới trại của ba Hùng, cho nên gia đình Hùng mới còn cơ hội sống. Mỗi lần “kiến súc” từ Sài Gòn về bến cũng vui lắm, chom xóm đến phụ rẽ bè cho cây chìm xuống sông, phải có thứ tự lớp lang, để khỏi bị trôi. Xong việc rồi nhậu nhẹt, tiệc tùng. Lúc kéo “súc” lên đà để “rã tào phô”, xẻ đôi, cũng vậy. Người ta dùng dây xiền bự cỡ cột một đầu vào súc còn đầu kia quấn vào bá lăng có hai cái lỗ to để xỏ hai dây đòn, rồi quay lên vòng vòng theo kiểu trâu đạp rạ. Mỗi lần rã tào phô mà cây đặc thì ba Hùng mừng lắm, thấy có lời, còn cây bộng thì may ra huề vốn. Làm nghề cây tài nghệ duy nhất là biết lựa cây, nhiều cây bên ngoài lỗ hang vậy mà bên trong đặc như sáp, trái lại nhiều cây bên ngoài trông lành lẽ mà bên trong dập nát cũng không biết chừng. Cây có lỗ có hang thì lại được mua với giá rẻ cũng dễ kiếm lời. Ba Hùng tính tiền bằng “bàn toán lắc cắc” thì lẹ lắm, lẹ hơn là làm trên giấy nhiều. Làm trên giấy chậm là vì ông phải lẩm nhẩm cái “cửu chương chữ nho” của ông mỗi lần ông viết ra một con số. Hùng nghe riết rồi cũng thuộc chút ít, mà nó cũng có vần ... cửu cửu bát nhất, bát cửu, thất nhì, thất cửu lục tam, lục cửu ngũ tứ, ... đâu khác gì chín lần chín tám mốt, chín lần tám bảy hai ... Nghề cây của ba Hùng càng ngày càng xuống dốc, bán chịu đòi chưa hết thì đến lúc ông bắt đầu mua chịu ở Sài Gòn, mỗi lần họ xuống đòi nợ, cơm nước đãi đằng má Hùng cũng mệt thở không ra hơi. Lẽ dĩ nhiên cũng phải quơ quào đâu đó chút đỉnh mà trả cho họ để họ vui lòng ra về chứ đâu bao giờ trả hết một lần.

Đó là những năm Hùng đi học sơ học, tiểu học. Trường sơ học xéo xéo với nhà Hùng bên kia sông, sông Tham Thu, một nhánh sông lớn chảy vào kinh Chợ Gạo. Nói là trường nhưng thực ra đây là nhà của ông hội đồng Lượng, một trong nhiều nhà nghỉ mát của ông ta. Nhà nền đúc cất theo kiểu Tây cao ráo mát mẻ. Mỗi ngày ba Hùng phải lấy xuồng đưa Hùng sang sông và rước Hùng về. Trong cái cặp dán bằng giấy dầu của Hùng chỉ vỏn vẹn có cuốn vần ABC. Rồi Hùng đương nhiên tốt nghiệp sớm, qua năm sau ông hội đồng lấy lại nhà và trường sơ học phải dời lên chợ quận nhập chung với trường tiểu học. Nói là trường tiểu học chứ thực ra là nhà của ông Huyện, dinh cũ của ông Huyện lấy làm trường. Quận gì mà nghèo quá. Hùng bắt đầu theo anh chị của Hùng chạy bộ từ nhà đến trường mỗi ngày, một cây số đi một cây số về. Hùng phải chạy mới kịp người lớn đi bộ, tuy nhiên Hùng cũng có cái cặp đệm hai ngăn như người lớn chứ không còn ôm cái cặp dán bằng giấy dầu nữa. Được nữa năm thì quận có chương trình xây cất trường mới, trả nhà cho ông Huyện. Nửa buổi đi học nửa buổi đi làm trường, ai cũng phải đi kể cả lớp Đồng Ấu. Trường được dự trù cất làm ba dãy theo hình chữ U với hai nhà hình bát giác ở mặt tiền làm văn phòng hiệu trưởng và phòng họp cho thầy cô. Chỗ giao điểm của hai lối đi hình chữ thập sẽ là sân cờ có vườn bông. Bốn góc còn có sân tập thể dục thể thao, sân chơi vũ cầu, bóng chuyền ... Không ngờ dự án bông hình coi đẹp như vậy mà lại cất trên một bìa rừng hoang dã tha ma. Và biết chừng nào mới xong. Mấy lớp nhỏ của Hùng đi theo để chơi nhiều hơn để làm nhưng cũng là những lớp trông đến giờ đi làm trường nhiều nhất. Từ sáng sớm, từ lúc chào cờ, từ lúc sắp hàng hai đi vào lớp. Chặt cây phá rừng, bang gò lấp nổng, rồi đem trâu cày lên một bận. Thấy được miếng đất trống như thấy được nữa đường, không bao lâu nữa sẽ xong. Rồi đến lượt khuân đất đắp nền, đắp đường đi. Đất trộn với trấu, trấu rải trên mặt đất cho mau khô, đâu đâu cũng thấy trấu ... Công tác của học trò cũng chỉ đến chừng đó, phần còn lại dựng trường, lợp trường, cột kèo phên vách thì do đám thợ chuyên môn lo. Vài tháng sau tỉnh trưởng xuống cắt băng khánh thành long trọng, có đồng ca "này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi ..." và có "ai bao năm vì sông núi quên thân mình ..." Nền trường càng ngày càng khô, nứt nẻ càng ngày càng lớn, bàn ghế càng gập ghềnh chổng đầu chổng gọng. Vậy mà chẳng ai phàn nàn. Mấy trường sơ học quanh vùng lần lần đóng cửa tập trung về trường quận, học trò càng ngày càng đông. Giờ ra chơi có cà rem cây, có kẹo kéo quay số, có nước đá bào si rô ... một cắt hai cắt cũng đủ xài. Khi lớn lên, mỗi lần trở về qua mái trường xưa cứ như còn thấy bóng dáng thầy Bảy già, thầy tám Chương, thầy chín Chương, thầy Hoàng ... và cả anh Tư cà rem ... Nhớ mấy lần bị đòn, bị khẻ tay, nhớ mấy lần chơi u đánh lộn, nhớ những đêm trăng trung thu rước cộ đèn, có phát bánh, có đấu xảo. Hùng nghĩ có mấy ai được cái cơ hội tự cất trường cho mình học.

Trở lại vấn đề làm ăn, ngoài việc làm cây ba má Hùng còn phải lo cày cấy năm mẫu ruộng của ông nội Hùng ở dưới "bờ lộ me ông chủ Hoàng", lối duy nhất đi vào sân banh. Qua khỏi sân banh thì đến khu rừng Cây Điệp, rồi mới đến ruộng. Vùng Cây Điệp này nỗi tiếng là linh thiêng ma quái, thiên hạ đồn rằng dưới gốc cây điệp, cây to nhất trong vùng, là hang cọp. Quỷ hiện hồn hành cọp nhảy ra ăn thịt người, xương xóc đầy hang. Chưa thấy quỷ chưa thấy cọp, nhưng thấy đây là nghĩa địa của Việt Minh, của những người chết không chỗ chôn. Có lần bộ đội chôn đồng bọn ở đây cả tiểu đoàn, mười mấy đêm liên tiếp. Mà không phải dễ chôn vì đào đâu cũng đụng hàng, lấp lại đào nơi khác, rồi cũng lấp lại đào nơi khác, đêm qua đêm. Khu rừng như đã được chôn năm bảy lớp người. Đối với Hùng, chỉ khổ một điều là mỗi lần ra ruộng phải đi qua những đường mòn len lỏi trong khu rừng này, nhất là đi ban đêm, thêm trời mưa rỉ rả. Ngọn đèn lồng soi sáng bước chân mình chưa đủ làm sao soi sáng cỏ cây. Tay bắt ấn mà lòng run cầm cập. Đi đoạn giữa thì đỡ, sợ nhất là đi sau chót. Hình như đâu đâu cũng có oan hồn, chết oan chết uổng, chết bắn chết trận, chết tức tưởi ... không giải thoát được, lẩn quẩn, quấn quít với nấm mồ như đã lạng của mình trong dập vùi lãng quên. Bờ ruộng giáp ranh với rừng, cái xa quạt dùng để "bơm" nước sông vào ruộng đặt dưới làn cống lại cũng hướng về phía rừng. Mỗi lần đạp nước đêm, vừa ngó cây nhang đốt tính giờ thay phiên vừa ngó vô rừng tưởng mình như đang cúng vái đất trời cho những vong hồn dật dờ kia được siêu thăng tịnh độ. Mùi hương trầm phản phất không đuổi được bay muỗi vo ve bên mình thỉnh thoảng cắn như ong chích. Cây nhang như dài thêm cháy hoài không tắt. Lắm lúc vừa đạp vừa ngủ, trật chân bị bàn đạp đập muốn sưng ống quyển mà còn bị anh bạn đồng thuyền đầu phía bên kia phàn nàn:

- Ngủ gục hả, mới đạp có mấy cây đã ngủ rồi, đạp hết bó nhang đó chưa chắc đã xong. Bây giờ nước mới đứng mấy tiếng nữa mới ròng.

- Nghe nói nản làm sao, nghỉ một chút đi, đi vô rừng nhổ mì về nướng ăn cái đã, đói bụng rồi ...

Ma đói đâu sợ đám ma quỷ chết không chỗ chôn. Mì không ai trồng mà mọc đầy rừng, ớt và ổi do chim ăn chim ỉa cũng mọc đặc gật trong đó.

Ba Hùng lần lần thu gọn nghề cây không làm lớn nữa, trở về Bình Phục Nhứt xây nhà máy xay lúa. Ông mua lại nhà máy của một người bạn trên bến phà, gỡ ra, chở về, rồi ráp lại. Lúc đầu làm ăn được lắm, dân trong vùng không còn chở lúa qua nhà máy Quơn Long nữa, nhưng ba Hùng vẫn bận tâm về vấn đề của một nơi người một ngã. Sau mấy tháng đi đi về về mệt mỏi, ông quyết định giao cho chú Hùng quản lý rồi lâu lâu xuống thăm một lần. Ông linh tính việc "chà lúa lấy tiền" này cũng có ngày thất bại. Ông kể lại một đêm ông nằm chiêm bao thấy một con sâu rọm thật to, xanh như sâu mãng cầu, đầy lông lá không hiểu từ đâu xuất hiện trên mặt bàn, rồi bắt đầu bò đến chân đèn, bò lên ngọn đèn, bò lên bong bóng ... Bong bóng nổ tiêu tan ... Sáng ngày sau có người đến báo tin bánh trớn nhà máy bị bể, phang vào cột nhà, nhà sập và nhiều người bị thương. Đầu máy loại xưa có hai bánh trớn hai bên, bể một cái không cân bằng không chạy được. Hàn lại cũng không được, nó sẽ bể nữa tiền mất tật mang. Mua cái mới cũng không có, mô đen cũ không ai bán. Bán sắt vụn. Quả thật rốt cuộc rồi ba Hùng phải bán sắt vụn cái nhà máy đó ...

Thất bại vụ nhà máy xay lúa ba Hùng đổi nghề lần nữa, biến trại cây thành trại mộc và trại hòm. Ông không còn đi sài Gòn kiến súc, bè cây bằng đường sông nữa mà mua cây và cưa tại chỗ rồi chở về bằng đường bộ. Trừ khi có người đặt nguyên một cái nhà hay ít ra vài bộ cột vài bộ đòn tay thì ba Hùng mới làm một chuyến kha khá, bằng không đi một chuyến nhỏ để mua cây đóng giường, bàn, tủ, ghế, đi văng, sóng chén ... Năm bảy ông thợ đủ làm căn trại thêm ồn ào náo nhiệt, vui nhà vui cửa. Vài người ở xa, ăn ngủ lại trại, năm ba ngày mới về thăm nhà một lần. Ban đêm họ uống nước trà trò chuyện, nói chuyện tiếu lâm. "má ơi con muốn lấy anh thợ bào. Ảnh khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu". Có người thổi kèn, bằng lá cóc kèn, tiếng kèn như kèn đám ma.

Làm thợ mộc muốn phát thì phải ếm, nhứt là mấy ông thợ cất nhà, mấy ông thợ có bùa lỗ ban. Lần thứ mười phải ếm thật nặng, ếm cho chủ nhà cất đầu không lên, ếm cho tán gia bại sản, ếm cho chết vợ chết con ... Nhưng mấy ông thợ đóng đồ mộc này cần gì phải ếm. Không ếm không được. Không ếm thì thợ mộc cất đầu không lên, tán gia bại sản, chết vợ chết con, không ếm lớn phải ếm nhỏ, tổ dạy vậy. Chính vì vậy mà lần đó ba Hùng bị cô ba Tỏ phàn nàn :

- Cái giường mua của anh thiệt kỳ, ngủ sáng dậy không biết đường ra, ai ngờ cái cửa mùng bên này mà cứ vạch vạch phía bên kia.

Rồi ông Năm Đại cũng phân trần :

- Từ ngày lấy cái giường của anh về vợ con tôi nó ngủ nó quay mặt vào vách.

Nhưng không bằng chú chín Trâu, cự nự ba Hùng một phát dữ tợn :

- Anh nghĩ coi nó ếm cái gì mà thằng nhỏ tui đêm nào ngủ cũng đái dầm. Giường tui đặt anh là giường phòng mà, nó ếm vậy thì làm sao thằng nhỏ ăn ở với vợ con nó được.

Không biết có đái dầm thiệt hay không nhưng chú chín cứ nói riết đến nỗi ba Hùng phải đổi cho chú cái giường khác ...

Đặc biệt có ông thợ chuyên môn làm nắp hòm, nghề của ông là đẽo cây dạt cây với cái rìu có cánh chuồn dài hơn cán rìu. Đẽo làm sao cho tròn cho trơn tru cho ăn khớp với khuôn hòm. Không phải chuyện dễ. Nắp hòm đàn ông thì mô hơn, nắp hòm đàn bà cũng phải đẽo cho đúng kiểu đúng cách. Tiền công của ông gấp đôi mấy ông thợ kia vậy mà ông cứ đòi đi làm chỗ khác hoài. Ba Hùng cũng bực mình ông dữ lắm nhưng không tìm ai thay thế ông ta được. Đêm nào ngoài trại hòm nghe tiếng cây vặn mình kẽo kẹt là sáng hôm sau có người tới mua hòm, có người qua đời. Đêm nào ba Hùng cũng đốt nhang ở "bàn thờ tiên sư", không hiểu ông vái cái gì, ông có chịu vái cho dân trong làng chết hết hay không.

Cho đến lúc má Hùng mở tiệm hàng xén thì trại mộc, trại hòm của ba Hùng cũng sắp sửa dẹp. Lúc đầu má Hùng chỉ định bán nước mắm, dầu lửa qua ngày, nhưng rồi tiệm càng ngày càng phát. Ba Hùng xoay qua nghề bỏ đồ và sổ sách cho vợ. Mấy mùa bán tết mấy năm đó cũng rầm rộ. Bánh, mứt, thèo lèo ... chưng đầy kệ. Có hoa mai, dưa hấu, có pháo bông, lì xì ... Nhưng rồi mấy tiệm lớn mở ra ngoài đầu cầu giựt mối, tiệm của má Hùng như bị thụt vào trong không thuận đường buôn bán. Tiệm càng ngày càng ế, kệ càng ngày càng trống. Ông làm không xong đến phiên bà rồi cũng thất bại, đời người như con nước lúc lên lúc xuống ...

 

Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi

Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.

 

Tiếc rẻ "chiếc ghe lù" mục lần trong ụ, ba Hùng quyết định trở lại nghề cây, nhất định lần này làm lớn. Chiếc ghe lù, chiếc ghe trông như cái hộp dùng để bè cây, chiếc ghe chỉ cần trọng tải mà không cần gì về hình dáng bên ngoài. Phải, phải xài nó trở lại. Ba Hùng đã quyết định như vậy và ông đã "đợ ruộng" làm vốn để mở đầu một màn phiêu lưu mới.

Đó cũng là năm Hùng bắt đầu xa nhà lên tỉnh, theo học ban trung học. Mỗi người một quê hương, một thuở thiếu thời. Quê hương và thuở thiếu thời của Hùng chỉ có chừng đó, nhưng luôn luôn gần gũi gắn bó với Hùng như ta với mình như hình với bóng. Mới đó mà đã thành xa xưa. Một thời xa xưa thêm một lần sống dậy.