Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

MÁI CHÙA XƯA

 

VÕ HỒNG

 

Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa.  Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm.  Mẹ tôi dặn:

-Không được kêu là “Ông thầy chùa” nghe chưa? Hỗn.

Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác.  Trong câu chuyện khi nhắc tới ông thầy đó thì mẹ tôi dùng ba chữ “Thầy Châu Lâm”.  Giọng kính cẩn có pha chút thân tình.  Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.  Đi trên đường, thấy cứ nhìn thẳng, nét mặt dịu dàng không vui không buồn.  Tôi chịu không đoán được tuổi.  Tóc và râu là hai bộ phận đê căn cứ mà định tuổi thì thầy đều không có.  Mặt lại không nếp nhăn.  Miệng lại không cười.  Đi giữa chúng tôi mà không gây nên tiếng động.  Chùa Châu Lâm ở cách biệt nơi chân núi, xa xóm cỡ một cây số rưỡi, nhưng đối với tuổi ấu thơ của tôi thì như vậy đã là xa hun hút.  Bởi vì muốn đi tới chùa, chúng tôi phải đi dọc vòng chân núi, đi theo con đường quanh co có nhiều bụi gai bàn chãi mọc dày.  Cảnh vật khác hẳn cảnh vật trên xóm, tưởng như hai thế giới riêng biệt.  Bụi cây âm u rất nhiều.  Chim hót tứ phía.  Rắn mối và kỳ nhông bò rèn rẹt mỗi lần có bước chân tới gần.  Ở trên miếng gai bàn chải chơm chởm, ở trên cành cây mọc chìa ra đường, thỉnh thoảng có con kỳ đà nằm yên lặng nghếch cái đầu màu đỏ lên nhìn.  Những đoạn đường quanh co vội vã.  Không dám chạy thẳng một mạch, không muốn làm phiền lòng những bờ duối bờ sậy, không muốn động chạm đến cả sự quây quần yên lặng và khiêm tốn của lũ cỏ gấu, con đường nhường nhịn, len lỏi né tránh.

Ngôi chùa trông thấy trước mắt nhưng phải đi vòng qua những thửa ruộng thấp, đi lượn qua mấy ngôi tháp cao, đi bọc theo khu vườn nhỏ rồi mới tới cửa Tam Quan.  Đá lởm chởm dưới chân, đá chất gồ ghề làm bờ thành bờ dậu.  Tất cả là công trình của bàn tay cần cù, là chứng tích của sự nghèo khó.  Chắc thầy trụ trì và chú điệu phải tự tay vần đá, kê chồng lên nhau, chèn ghép vào nhau trong những buổi mai còn đầy sương.  Trong những buổi chiều có tiếng sơn ca lanh lảnh hay trong đêm trăng thơm mùi hoa dại.  Không có dấu vết của chiếc bay thợ nề trên những kẽ đá, nơi dung thân của lũ rắn mối cắc kè.

Ấp tôi dân số đã ít, ai cũng nghèo nên chùa không thế nào giàu được.  Hình như tài sản của chùa chỉ có hai miếng đất thổ và để có đủ lúa ăn, nhà chùa phải làm rẽ bảy giạ giống ruộng.  Bởi hoa lợi ít ỏi nên thầy trụ trì chỉ nuôi nổi một đồ đệ.  Người đồ đệ này là bạn chơi cùng lứa với chú Ba tôi, nên chú tôi cứ tha hồ xưng hô bằng “thằng”, bằng “mày” trong khi những đạo hữu cao tuổi gọi bằng “chú Điệu”.  Tôi thì bắt chước theo lũ nho kêu bằng “ông Điệu” dù ông chỉ mới khoảng 16-17 tuổi.  Ông Điệu lo sạ lúa, làm cỏ, tát nước ruộng.  Một hôm bị bạn bè rủ rê – trong đó có chú Ba tôi – hái luôn một trái dưa hấu của đám rẫy cạnh vườn chùa rồi bạch ra ăn với nhau.  Thầy trụ trì bắt gặp.  Thầy lùa cả bọn vô chùa để tra hỏi, sau đó thầy sai ông Điệu ra sau liêu lấy cái roi mây.  “Ông” bước đi rất chậm, tưởng như bàn chân đang bận suy nghĩ.  Thầy bình tĩnh đợi.  Khi cần roi trên tay, thầy bắt ông nằm xuống.  Trót! Trót! Trót! Ông Điệu lăn qua lăn lại, khóc ồ lên, vừa “Lạy thầy con lỡ dại! Lạy thầy con xin chừa”.  Sau năm roi, thầy ra lệnh cho ngồi dậy.  Ông Điệu vâng lệnh ngồi dậy nhưng không bước ra hiên lấy gáo múc nước rửa mặt như tôi tưởng.  Mà ông lại đứng ngay ngắn trước mặt thầy rồi bỗng ông quỳ xuống lạy luôn ba lạy.

Tôi ngạc nhiên hết đỗi.  Ở nhà, mỗi lần bị cha tôi bắt nằm xuống đánh xong cho ngồi dậy là tôi vừa khóc hù hụ vừa ra hiên múc nước rữa mặt.  Lần nào cũng vậy, y như một nghi thức không thay đổi.  Lần đầu tiên thấy một người bị đánh lạy tạ người vừa đánh mình, lòng tôi chợt nảy sinh một cảm giác lạ.  Một sự kính trọng bồi hồi.  Nhưng chưa hết.  Thầy trụ trì ung dung nói:

-Đi vô làm lễ sám hối.

Ông Điệu “Dạ”, lại kẹt cửa lấy cái áo tràng màu xám choàng lên người.  Ông châm một nén hương rồi tẻ ra cắm ở mấy bàn thờ Phật.  Ông lại cầm dùi đánh nhiều hồi vào cái trống sấm.  Rồi sau đó ông quỳ tụng niệm ê a một lát lâu.

Lúc nhỏ khi chưa đi học, tôi hay theo chú Ba tôi đi chơi lang thang nên cái cảnh ông Điệu bị đòn, chúng tôi chứng kiến từ đầu đến cuối.  Tôi giữ một ấn tượng tốt về nhà chùa là bởi sự kiện đó.  Có lần chú tôi lén chỉ cho tôi coi một cái chum đất nung lên men đặt ở sân sau của chùa.  Chú nói:

-Cái chum tương đó.

Tôi hỏi:

-Sao đem để ngoài nắng vậy?

-Đem dang cho tương nó ngon.

-Mày tưởng chùa gọt vỏ bí vỏ bầu rồi bưng đổ hả?  Không có.  Đem bỏ vô chum tương, để lâu nó thành tương..

Chú tôi không có óc khoa học, hay tin lời người khác mà không chịu phối kiểm với thực tế, thỉnh thoảng lại hay nói ẩu nên tôi không biết sự thực có phải đó là một cách làm tương đơn giản hay không.  Nhưng cho dẫu không biết chắc, tôi cũng có thể cả quyết rằng cách làm tương ở chùa này phải là cách đơn giản thô sơ hơn hết.  Cứ nhìn lối sống của thầy trụ trì và của ông Điệu là biết ngay.  Ngoại trừ cáci áo nâu dài mặc khi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ.  Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò.  Thuốc lá thầy hút là thứ thuốc tự tay thầy trồng.  Vài chục cây thuốc mọc ở một vạt đất nhỏ đầy sỏi đá nơi cửa sổ nhà Đông, có những lá già ở gần gốc đã được tướt đi.  Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy.  Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người.  Ai muốn ghé chùa chơi cung được, cửa Tam Quan gần như không bao giờ đóng.  Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp.  Có mấy bụi chuối mốc đứng ở chái chùa là hay có trái hườm trên những buồng chuối nặng.  Lũ chim chào mào tọc mạch bao giờ cũng thấy trước và lén mổ trộm.  Người từ xóm lại phải đi băng qua một quãng đồng trống, ai công đâu xách một bụi chuối trên tay?  Quả rằng chỉ có lũ chim là chuyên môn ăn trộm của chùa.  Mấy trái mãn cầu chín quên hái ở ngoài vườn, chùm ớt đỏ nơi vại nước rủ rê lỹ chim đội mũ, chim chìa vôi tụ hội lại vừa ăn vừa nói chuyện rinh rả.  Bụi thơm cây mít ở sau lưng chùa thì lũ sóc ranh mãnh dòm chừng.

Người tìm đến chùa thường để xin nghỉ mát hay để tìm nước uống.  Đó là trường hợp những người cấy lúa, cuốc cỏ mía ở những đám ruộng đám thổ gần đó.  Buổi trưa nghỉ tay.  Về trong xóm thì xa, ngồi dưới gốc cây thì hanh nắng, sẵn có chùa gần xin vào nghỉ ở chái sau.  Nước uống thì sẵn ở chum, dùng bao nhiêu cũng có, tha hồ.  Tuy nhiên, dùng chỉ hết mười gáo nhưng họ bảo nhau ra giếng xách châm vào cho đầy hũ đầy lu, đỡ tay chú Điệu một bữa.  Hôm nào mo cơm gói theo mà thiếu đồ ăn thì chú Điệu múc cho chén tương.

Mấy đứa chăn bò, lũ nhỏ hái củi hay ghé xuống chùa xin muối.  Bò lùa thả ăn ở chân núi còn chúng thì tụ hội lại đánh đáo đánh trổng hoặc sục sạo vào các bụi cây để hái ổi, hái sim, múi dẻ, nhãn chày...Khi không nhằm màu trái cây thì bứt đỡ lá dang lá me xuống chùa xin muối lên chấm ăn.  Bước qua vại nước thấy có ớt chín thì lén hái một hai trái để lên giã chung với muối.  Nếu thầy trụ trì hay chú Điệu bắt gặp thì cũng chỉ “Ê, Ê!” vài tiếng và người phạm lỗi rút tay ra, bẽn lẽn cười rồi đi luôn.  Không ai nỡ nghĩ rằng đó là một sự ăn cắp.  Cái không khí tịch mịch bao dung nuôi dưỡng lòng hỉ xả.

Lên bảy tuổi, tôi đi học ở trường Thiện Đức, cách nhà một con đò và hai cây số đường bộ.  Trường nằm ở trên chỏm núi.  Do mất người bạn lớn dẫn dắt, một hôm đang giữa giờ học, tôi cũng “xin phép thầy cho ra ngoài”.  Thật tình tôi không hiểu “ đi ra ngoài” là đi đâu mà cứ thấy mấy anh lớn hay giơ ngón tay lên xin.  Gạn hỏi mại một anh lớn tên Khoan – sau này lên lớp Tư chúng tôi cứ kêu là anh Tư Khoan bởi có một bài tập đọc kể sự tích ôn Lưu Khoan có người thị nữ bưng bát cháo lên hầy, lỡ tay đánh đỗ cháo ra cái chầu vân vân – giảng cho tôi nghe:

-Đi ra bụi duối ngồi mát.

Tôi nói:

-Ngồi trong lớp đâu có nực? Mát buồn ngủ luôn.

-Nhưng đâu bằng ở ngoài núi?  Sẵn trái duối chín hái ăn luôn.

Nhằm trúng cây duối ngọt thì trái duối chín ăn như đường phén – tôi đang nghĩ tiếp.  Nhằm cây duối trái đắng thì bỏ đi.  Lựa cho được cây duối ngọt.  Kiến vàng đít bự ưa trái duối lắm, bò từng đàn...

Đôi hồi chạy tuột dốc xuống luôn chùa Cảnh Phước – anh Khoan tiếp – Xin vài trái chanh chấm ăn với muối.

Thế là tôi lập tâm muốn đi hoang một bữa.  Tôi đợi giờ chữ Nho của thầy Lê Ngu Tân.  Thầy hiền, không đứa nào sợ.  Anh Khoan đợi tôi ngoài cửa lớp.  Thấy tôi ra anh khen liền:

-Được đó, mày phải dạn lên một chút.  Thôi bữa nay khỏi ăn duối đi.  Tao cho mày xuống chùa Cảnh Phước.

Không cần hỏi tôi có đồng ý hay không, anh cứ xổ dốc luôn.  Trời ơi! Triền dốc thì đứng mà anh cứ chạy băng ào, chạy quá đà phải ôm luôn một nhành cây mới hãm bớt lực.  Nhiều lần như vậy.  Cuối cùng, chúng tôi lọt vào sân chùa.  Kèm với sự bỡ ngỡ, cái cảm tưởng đầu tiên của tôi là chùa Cảnh Phước giàu hơn chùa Châu Lâm.  Có nhiều màu trắng của vôi mới nơi trụ hiên, nơi vách.  Có sự bằng phẳng rộng rãi nơi sân, các lối đi được viền bằng cỏ tóc tiên.  Hoa được trồng thành bồn.  Có một dãy những cái hồ lớn đắp bằng xi măng trong thả bèo hay trồng sen.  Vườn chùa kế tiếp theo sân.  Một cây cần vọt nước cất tiếng kẽo kẹt.  Nhiều cây chanh lá xanh um đứng kề thềm giếng.  Khế, ổi, bụi môn bạc hà, cây bưởi, vạt bắp, vạt củ mì, và xa hơn, những cây cao có màu hoa đỏ đứng cạnh những ngôi tháp.  Nhiều lần sau tôi lại có dịp xổ dốc để xuống thăm chùa Cảnh Phước và mỗi lần như vậy giúp chúng tôi khám phá thêm một nét phong lưu của chùa.  Thầy trụ trì vui vẻ nhìn chúng tôi, ngắt cho những trái chanh vừa vò đầu âu yếm.  Những lúc tôi bỗng nhớ đến khuôn mặt trầm ngâm của thầy Châu Lâm và không hiểu tại sao tôi chợt thấy thương thầy.  Tôi thương ngôi chùa nghèo, có nhiều màu xám nơi cửa nơi vách, có một cái sân không đủ sức để bằng phẳng và vuông vức, có nhiều sỏi đá đến nỗi cây khế cũng không trỗ được màu xanh.

Chùa Châu Lâm có một cái tên nôm là “chùa Đồng Mạ”.  Tên đó dành cho những người bình dân trong xóm gọi.  Chùa Cảnh Phước không có tên nôm.  Trong tuổi ấu thơ, tôi đã nghĩ rằng đó là một sự thiệt thòi của kẻ giàu.  Lớn lên, tôi biết rằng có nhiều ngôi chùa vừa giàu vừa có đủ hai tên.  Như chùa Đá Trắng với tên “Sắc tứ Từ Quang Tự”, chùa Tổ với tên “Sắc tứ Bát Nhã Tự”.  “Sắc Tứ” tức là được nhà Vua công nhận và ban cho cái tên.  Y như là những con người ở ngoài đời vừa giàu vừa sang.  Ở Phong Thăng có một ngôi chùa giàu không được ‘Sắc tứ’.  Nhưntg có tên là chùa Bảo Sơn.  Bảo Sơn, Linh Sơn, Phước Sơn...Những cái tên khi đọc lên có âm vang của sự sang giàu.  “Châu Lâm” của xóm tôi khiếm tốn đến nỗi không muốn lạm dụng đến cả âm ba, món trang sức không đòi hỏi phải có nhiều tiền mới sắm được.

Có một món quà chùa sẵn lòng tặng cho ai cần: đó là cành bông điệp.

Không biết tục lệ xuất phát từ đâu mà cả làng tôi mỗi lần có việc cúng kỵ là chỉ chăm chăm đi hái bông điệp để cắm lên bàn thờ.  Nếu nhằm ngày Tết tháng Giêng thì có thể cắm thêm bông vạn thọ, bông trang đỏ.  Những loại hoa khác như cúc, thược dược, huệ hồng...Dẫu đẹp nhưng là những món cắm chơi giữa người trần tục với nhau  Tục lệ đó chắc đã nhắm một mục đích kinh tế rõ rệt: Cây bông điệp trồng một lần mà ra bông cả vài chục năm bởi nó là thân mộc lớn cỡ bằng cây táo nhơn.  Hoa có hai loại, màu đỏ và màu vàng, mọc thành chùm nên chỉ cần bẻ ba chùm là đủ ghép thành một bình.  Chùa trồng ba bốn cây ở trên lối đi như vậy là đủ cho nhu cầu của một xóm.  Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dẫu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện diện.  Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm an ủi và hy vọng.  Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mời thầy tụng kinh cầu an.  Mười năm một lần ban trị sự Ap tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả Ấp.

Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ, dập dìu tới dự, áo quần tươm tất, mặt mày tươi vui, khiến tôi nghĩ rằng đây là vừa là Lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới.  Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi vào cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ, kẻ sang người hèn.  Y như ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.  Trong những ngày đó, người có cầm tới bao đèn bao nhang hay buồng cau nải chuối, người có góp phần công đức năm cắc một đồng hay gói trà phong bánh đều được mời dự bữa cơm chay ngang hàng với kẻ chỉ tò mò đứng coi.  Có người quá nghèo thì tới lãnh phần gọt vỏ bí khoai hay vo gạo đãi đậu.  Có người tối mặt tối mày trong bếp.  Một lần tôi theo cha tôi tới dự lễ Rằm tháng Bảy ở chùa.  Thầy trụ trì nói chuyện bình thản với khách trong khi các người nấu cỗ dọn bàn cứ tự động lo liệu lấy.  Họ tự sai pháp, phân công làm chuyện chùa là chuyện nhà của họ.

Những tiếng kêu gọi, hỏi han, dặn dò đan trèo vào nhau:

-Đưa đây chai dầu phộng!

-Ra vác thêm bỏ củi, em em.

-Lấy bó gộc ở chỗ gốc táo đó.

-Lu gạo để ở đâu? Chớ tỉn này vét hết rồi!

-Hỏi chú Điệu!

-Chú Điệu ơi!  Ủa, mà cứ xúc thúng gạo lúc Gòn của cô Năm mới đội tới đó cũng được mà.

Bí sắp này chắc lấy giống ở Đờ-răng.  Trái to mà dài như con heo.  Ở trong chùa Tổ, nấu chay là la-ghim Đờ-răng và Trà Lạch chở xuống.  Phải, chùa Tổ là chùa nổi tiếng nhất của cả tỉnh, có nhiều đạo hữu giàu ở các tỉnh khác cũng xin quy y làm đệ tử.  Một số các đệ tử gốc Dran, Đà Lạt.  Mỗi kỳ lễ lớn, họ gửi theo xe hàng xuống từng giỏ cần xé to những bắp sú, cà rốt, khoai tây, đậu hòa lan, củ cải...Khi ngồi nghĩ đến một cỗ chay thịnh soạn ở chùa Tổ, các bà Lý bà Hương chắc có ước ao được thưởng thức coi nó ngon ra làm sao nhưng tôi tin rằng đồng thời họ lại cũng đang thêm yêu thương ngôi chùa nghèo của họ và cuộc đời tầm thường của chính họ.  Nghèo nàn là một sợi dây thân ái ràng buộc mọi người.  Khi có đồng tiền dính dự vào thì đồng tiền gây mầm chia rẽ.  Không khí của một bữa cỗ chay khác xa với một bữa cỗ mặn.  Không có sự náo nức của người dự cỗ.  Không ai tham ăn, háu ăn, mọi người đều hưỡn đãi mời mọc nhau.  Chỉ vì món chay của nhà-quê hồi đó không có những mỹ vị đam mê.

Xào thì đậu đũa xào dầu, mướp xào dầu, khoai lang xào dầu.  Đại khái là một món rau trái được lăn qua trong dầu phộng rồi nằm trong chảo đậy vung hầm hơi cho chín.  Món canh thì nhờ đậu phộng mà ngọt, khác nhau chỉ có bát này là bí đỏ, bát kia là bầu, bát kia là rau cải.

Trong bữa ăn có bày luôn cả các món tráng miệng.  Và mười lần như một, thế nào cũng có người đưa ra ý kiến: “Ăn chay thì phải gắp bỏ nhiều món vô chung một bát rồi ăn mới ngon”.  Lần nào dự bữa ăn chay toi cũng có ý đợi chờ xem ai sẽ là người đầu tiên nói lên câu đó.  Ở nhà tôi thì y như cô Bảy tôi lãnh phần nói trước.  Và chú Ba tôi thực hành liền.  Chú lấy bát canh, bẻ bánh trang, nước bỏ vô, gắp xào đậu xào khoai, nộm đu đủ bỏ vô và chú chuẩn bị biểu diễn.  Cô tôi đây đĩa cốm và bánh in lại gần(ở miền Trung, cốm là thứ bánh làm bằng bột nếp rang trộng đường đóng khuôn):

“Bỏ luôn miếng cốm vô.”

Chú Ba cười liền:

“Phải đó, như vậy mới đúng điệu ăn chay.”

Khi tôi lớn lên đi đây đi đó, tôi được dịp ghé thăm nhiều ngôi chùa sang trọng, được dự nhiều bữa tiệc chay thịnh soạn ngon lành.  Mỗi lần như vậy, lòng tôi lại bùi ngùi nhớ đến ngôi chùa quê của tôi, đến những bữa cỗ chay thanh đạm nghèo nàn, thanh đạm đến mức “Có thể trộn lẫn nhiều món vào nhau mà không sợ mất hương vị”.  Bởi lẽ, than ôi, có hương vị gì đâu mà gọi rằng mất.

Những kỷ niệm ngày thơ ấu đó dẫu có thời gian cách trở nhưng bây giờ đây mỗi lần nhớ lại là tôi thấy hiện lên rõ ràng trước mắt.  Tôi có thể nghe cả giọng nói và âm thanh riêng biệt của từng người.  Bà Bộ, buôn trầu cau ở chợ Chiều, mỗi lần lễ xong tới mục thiêu vàng là khệ nệ lãnh bưng cái nia lớn lên xếp đầy những tờ giấy tiền, thanh y, giấy vàng bạc ra trước sân chùa.  Bà châm lửa đốt từng xấp giấy rồi chấp tay nhìn ngọn lửa một cách cung kính.  Những tàn tro giấy vỡ ra, bị hơi nóng cuốn hút bay lên, lượn lững lờ.  Bà xuýt xoa vái bốn phía rồi nói với những bà con đứng xung quanh:

“Các đẳng tới nhận áo và vàng bạc đó.  Các ngài đứng ở trên cao.”

Không ai tỏ bày ý kiến.  Bà đành nói tiếp – như để thuyết phục một hoài nghi tưởng tượng nào đó, - cái lý luận bà đã chuẩn bị sẵn ở nhà, có lẽ đã nói nhiêu lần ở nhiều nơi rồi:

“Chớ Trời đâu có gió mà tàn tro cứ nhắm trên cao mà bay?”

Mọi người vội vã nghiêm chỉnh và kính cẩn.  Cả cái không gian âm u của buổi chiều nơi sân chùa như đầy những vong linh, nhựng cô hồn tụ hội.  Bà Bộ thật xứng đáng được các đẳng ban thưởng.  Tôi chưa thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ như khuôn mặt của bà lúc ấy.

Trải qua cuộc chiến dằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường.  Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi.  Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, con chim chào mào chìa vôi chắc ngang nhiên làm tổ ngay ở chái hiên trước.

VÕ HỒNG.