Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

MỘT THOÁNG NHỚ

VỀ ĐẢO PHÚ QUÍ

 

MỸ KHÊ

 

 

Là những người Bình Thuận, có mấy ai đi hết các vùng thôn xã của tỉnh nhà chưa? Và có chăng nữa, đã mấy ai đến vùng hải đảo xa xôi như Phú Quí? Người lục địa riêng từ Hàm Thuận đến Tuy Phong chỉ biết Phú Quí qua những con người chất phác, mộc mạc, với giọng nói đặc biệt, để rồi đặt cho Phú Quí một cái tên đơn giản là "Hòn".Nếu ai đã đến Phú Quí một lần, cho dù chỉ một lần thôi cũng sẽ hiểu đôi phần về phong tục, tập quán, tính tình hiếu hoà, lòng hiếu khách của người dân hải đảo. Trước đây vì thiếu phương tiện giao thông và nếu có chăng nữa cũng chỉ là những chiếc ghe buồm thô sơ, cho nên Phú Quí bị cô lập với đất liền hằng mấy thế kỷ qua. Không ai xác nhận rõ ràng người dân đến đây lập nghiệp tự bao giờ mà tiếng nói, giọng nói đúng hơn, lại thay đổi khá nhiều. Trong chín làng, theo hệ thống làng xã ngày xưa thì mỗi làng hoặc vài làng kế cận có giọng nói giống nhau. Chẳng hạn người xóm Núi (Triều Dương) nói nhấn như người Phú Yên. Người xóm Chùa (Mỹ Khê-hội An) nói gần giống người Quảng Ngãi. Người xóm Bầu, xóm Biển, xóm Bãi Lăng (gần làng Quí Thạnh, Thương Hải, Hải Châu) nói như người Bình Định, nửa như Quảng Ngãi. Riêng người Bãi Dừa và xóm Rẫy (Long Hải Đông và Long Hải Tây) giọng từa tựa như người Quảng Nam.

Sở dĩ tôi phân tách như vậy để thấy rằng cái thuở mới lập nghiệp ở đây gồm những cư dân đến từ Phú Yên ra đến Quảng Nam. Trong dân gian trước đây có nhiều câu đố, hò, vè mà một trong những câu hò nói lên đôi chút gốc gác của người Phú Quí là:

Anh về Bình Định lâu vô.Để em ăn cháo uống hồ hư thân.

Những thế hệ trước đây họ còn nhớ rất nhiều mà đến nay hoàn toàn bị thất truyền. Chính những thế hệ này truyền tụng cho nhau rằng ngày xưa tổ tiên, cha ông họ đi đánh cá chuồn bị gió lớn phải xiêu đến đây, thấy đất đai màu mỡ nên sau đó trở về dắt díu nhau đến lập nghiệp, họ đi từng nhóm trong cùng làng, khác tỉnh, đến nơi họ ở chung nhau thành từng làng và lấy tên làng từ nơi ra đi.

Điều được xác nhận rõ ràng gốc gác của cư dân Phú Quí có lẽ là những phong tục, tập quán, kiểu nhà ở và phương tiện sản xuất kể cả những tiếng rất xưa (cổ ngữ) hoặc tiếng địa phương mà chỉ tìm thấy ở vùng Nam-Ngãi-Bình-Phú. Lại có người cho rằng cư dân ở đây gốc người Chàm, điều này hoàn toàn sai, xét về phương diện nhân chủng lẫn nếp sống của người dân. Tuy nhiên có một vài chỉ dấu cho thấy trước đó người Chàm đã sinh sống nơi đây như những cổ vật Chàm được tìm thấy, hoặc cái gùi mà người Phú Quí xưa nay dùng để chuyển vận lương thực. Sau này có câu ca dao:

 

Ngoài Hòn coi vậy mà vui

Đi đâu cũng có cái gùi sau lưng.

 

Có lẽ đây là câu mà người lục địa truyền khẩu sau ngày 30-4-75 vì trước đó không hề nghe thấy.Là một hải đảo, Phú Quí gần như bị lãng quên, người dân nơi đây hoàn toàn tự túc về mọi phương diện từ cái ăn, cái mặc. Cách đây bốn thập niên người Phú Quí còn trồng bông dệt vải, nuôi tằm kéo tơ. Dệt vải gồm hai loại, vải mịn và dày để may mặc gọi là vải bận, vải thô và hơi thưa để đóng thuế gọi là vải thuế. Tơ dệt thành lụa thì chỉ có những người khá giả mới có một bộ, có điều là từ các triều vua nhà Nguyễn hay trước đó, không ai quên việc thu thuế, hoặc giả chính người dân ở đây tự nguyện nộp cho làng và mang vào huyện liên hệ mà nộp. Mới đây con cháu một cựu chánh tổng tìm thấy một tập văn vần nói về nỗi lòng của các người thợ mộc, thợ hồ được tuyển để làm xâu (nghĩa vụ lao động, theo cách nói của XHCN), có lẽ để xây lăng tẩm tận ngoài Huế. Văn bản này hoàn toàn bằng chữ nôm. Tuy xa xôi cách trở và không được một chút quyền lợi mưa móc nào từ trung ương, người dân nơi đây vẫn một lòng trung thành với triều đình cho nên ít ai trốn xâu, lậu thuế. Đúng với cái câu truyền tụng trong dân gian: “trai thì trung hiếu làm đầu”.

Trong thời Pháp thuộc thỉnh thoảng có tàu thủy chở quan chức từ tỉnh ra bắt lính và giúp đỡ đôi chút về y tế và kể từ thời đó chấm dứt việc nộp thuế bằng hiện vật.Về Phú Quí người ta sẽ ngạc nhiên với hệ thống đình, chùa, lăng, miếu. Trong chín làng, mỗi làng đều có một miếu, một lăng để thơ Thành Hoàng và thờ Thần. Trước đây, hằng năm xuân thu nhị kỳ làng nào cũng cúng tế với đây đủ lễ nghi, có phụng sắc tức rước sắc phong của nhà vua, nào cờ quạt (cờ dìa), trống chiêng, lễ nhạc rất long trọng và dân làng tề tựu đông đủ với khăn đóng áo dài, các văn tế hoàn toàn bằng chữ Hán.Sau năm 1975 việc cúng tế này bị cấm và các lăng miếu đều hoang phế. Mới đây trong cái gọi là phục hồi di tích lịch sử, nhà nước Việt Nam cho phép chỉnh trang các nơi thờ cúng và nhiều nơi đã tu sửa phần nào nhưng không còn như thuở trước.Ở Phú Quí hầu hết là người theo đạo Phật, do đó tuy với số dân ít ỏi vẫn có đến bảy ngôi chùa mà lớn nhất hiện nay là chùa Linh Quang vừa xây lại mới có thể so sánh với bất cứ chùa lớn nào từ nam chí bắc kể cả chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi được xem cuốn video khánh thành chùa Linh Quang và có bài thơ nhớ chùa xưa như sau:

Lắng nghe từng tiếng chuông ngân

Mà hồn như trút bụi trần vương mang

Bao năm cách trở quan san

Nhớ ngôi chùa cũ, nhớ hàng dừa xanh

Những đêm trăng sáng yên lành

Câu kinh tiếng kệ dỗ dành nhân gian

Thương sao hai tiếng Linh Quang

Ngàn xưa còn đó, vẻ vang bây giờ.

Mới đây chùa Linh Quang được chứng nhận là di tích lịch sử văn hóa. Chùa này được xây trên một ngọn đồi do vua Gia Long lúc bôn tẩu chọn địa điểm. Chùa có một tượng Phật lớn được tạc bằng đá gọi là đá nổi. Tục truyền rằng một trưởng lão chiêm bao thấy khối đá tự nhiên nổi lên ở Hòn Tranh, cách đó vài dặm. Dân chúng chèo thuyền đến nơi thì quả có đá nổi và mang về tạc tượng. Chỗ đá nổi ngày nay vẫn được gọi là Vũng Phật, một thắng cảnh tuyệt vời.Ở Hòn Tranh còn có miễu Trấn Quốc thờ Đức Trần Hưng Đạo. Ở Long Hải có miếu Bà Chúa Xứ, người dạy dân cách trồng lúa, làm nương. Một dinh Thầy Chúa, vị thần đã phù hộ người Phú Quí trong mọi hoàn cảnh nguy nan mà ngay những người lính Quốc Gia ra trận đều cầu khẩn. Ngay như bây giờ ở Cali, người gốc Phú Quí ở San Francisco và San Bernadino đến tháng 7 âm lịch vẫn ngả bò "Cúng Thầy Chúa", vì Thầy Chúa đã phù hộ người Phú Quí vượt biển mà không một ai bị bắt hoặc bỏ mạng trên biển cả.Mãi đến thập niên 60 mới có một vài gia đình theo đạo Cao Đài và Tin Lành. Hai tôn giáo này ở Phú Quí cũng có thánh thất, nhưng khi CS tiếp thu, nhà thờ Tin Lành bị đập vì họ nói đạo của Mỹ. Thánh thất Cao Đài vẫn còn nhưng rất khiêm tốn vì không phát triển được. Có điều lạ là trước đây hằng thế kỷ, mặc dù người dân phải vật lộn với cuộc sống từng ngày đói no từng bữa, nhà tranh vách đất, ấy vậy mà những nơi tín ngưỡng được xây bằng gạch ngói và bên trong chàm trổ sơn phết rất công phu. Ngoài ra ngư dân Phú Quí còn xây nơi thờ cá ông, gọi là "ông Nam Hải" có ít nhất là ba ngôi như thế gọi là Vạn.Xem như thế để thấy niềm tin của người dân ở đây cao độ đến chừng nào. Trong mỗi người dân Phú Quí từ già đến trẻ đều có một vị Phật, vị Thánh, vị Thần cho nên một xã hội thật an bình - có thể nói suốt mấy thập niên qua chưa hề xảy ra vụ án mạng nào. Xung đột nếu thái quá hung hãn quá cũng chỉ ấu đả nhau là cùng. Nhờ vậy mà người dân bình thản làm ăn, sống hiền hòa và tương trợ lẫn nhau ở mọi hoàn cảnh mà trong đời tôi dù đã rày đây mai đó từ bắc chí nam chưa thấy nơi nào được như vậy. Tôi cũng chưa thấy người dân ở đâu cần cù nhẫn nại như ở đây. Có lẽ vì hoàn cảnh địa lý và phải mưu sinh hằng ngày đã tạo nên cái bản chất tốt đẹp này. Chính nhờ vậy mà mức phát triển thật nhanh. Chỉ một thập niên từ 1965-1975, Phú Quý đã động cơ hóa ngư thuyền lớn nhỏ và trong 10 năm đó cũng khó tìm được một mái nhà tranh ở hải đảo này.

Mặc dù cuộc sống đã thêm khó khăn theo vận nước, người Phú Quí vẫn một lòng sống chết với hải đảo đã là nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Họ không nỡ bỏ đảo mà đi vì nơi đó còn mồ mả cha ông, còn những giọt nước mắt của ngày buồn và những tiếng cười của ngày vui. Họ được kêu gọi từ các tàu ngoại quốc lúc đi hành nghề, nhưng chỉ có một số trai trẻ là quyết chí ra đi thôi. Người Phú Quí yêu đảo như yêu chính bản thân mình, mọi thăng trầm của cuộc sống ở đó cho dẫu ngàn trùng xa cách như ở Mỹ này cũng được thông báo cho nhau và dù khó khăn cách mấy cũng phải một lần về thăm, cho nên hầu hết người Phú Quí định cư trên thế giới ai cũng đã một lần trở về bất chấp những trở ngại về chính kiến. Cái gì đã tạo nên sự gắn bó thiết thân đó, phải chăng nó phát nguồn từ cái thuở chào đời với củ khoai trái bắp, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi đùm bọc nhau mà sống. Ở Phú Quí không có người giàu lắm nhưng cũng không có kẻ quá nghèo đến nổi phải ăn xin, ai cũng có một mảnh đất để cày, có một mái nhà để ở.Thời gian có thay đổi, xã hội biến hoá từng giai đoạn, nhưng bản chất của cư dân ở đây ít đổi thay. Ngày nay với phương tiện vận chuyển dồi dào và nhanh chóng đoạn đường 60 dặm không còn là nổi oan nghiệt tách rời Phú Quí với đất liền. Người Phú Quí đã bắt kịp nhịp độ tiến hóa của xã hội và do đó mức thu nhập không còn là đoạn đường cách trở so với dân đất liền. Biển đã bao dung cho người hải đảo từ ngàn xưa thì bây giờ biển cũng lại là nguồn sống và nơi trả công xứng đáng cho người biết chịu thương chịu khó làm ăn. Phú Quí đã có mức sống khá cao, không như những thập niên 50, 60. Ngày mà chị Thu Nhi thăm đảo để có những bài viết về Phú Quí trên báo Phổ Thông của ông Nguyễn Vỹ. Đó là những ngày sơ khai tiến về phía trước. Thuở đó tôi rất cảm động khi đọc những bài này, vì đây là lần đầu tiên có người lặn lội đến cái hải đảo lẻ loi này. Ai đã đọc qua chắc cũng sẽ thấy lạ lùng cho một vùng đất xa xôi cách trở. Những điều tốt đẹp được viết ra thuở đó của chị Thu Nhi thì ngày nay vẫn còn. Chỉ có cuộc sống là thay đổi mặc dù sự đổi thay này chưa đúng với cái tên Phú Quí vốn được đặt ra từ cái thuở đảo rất nghèo nàn.Tôi còn nhớ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Phùng Trung Ngân cùng phái đoàn từ Viện Đại Học Khoa Học Sài Gòn ra nghiên cứu thảo mộc ở đảo. Sau đó có một vài bài viết trên tạp chí Khoa Học, có phần đề nghị cách gieo trồng theo phong thổ của đảo để nâng cao mức sống phần nào. Những đó là chuyện của các nhà khoa học có chút nhân từ đối với cư dân Phú Quí. Việc thực hiện thuộc về giai cấp chính quyền, họ là những người không một chút thiết tha gì đến Phú Quí, vì họ đến đây với nỗi lòng của người "bị đày" khi phải thi hành nhiệm vụ, kể cả các thầy giáo dạy ở phú Quí. Họ đến và đi như một khách trọ. Mấy ai gắn bó với nơi này.

Tuy vậy Phú Quí vẫn bắt kịp nhịp độ tiến bộ của xã hội ngày nay qua mức thu nhập và cuộc sống mới. Đây là niềm hãnh diện khôn cùng của lớp cán bộ ít học nhưng nhiều quyền thê. Họ đâu có biết rằng có được như vậy là nhờ vào tính cần cù nhẫn nại và óc cầu tiến của lớp trẻ Phú Quí khi họ thoát ra từ những khó khăn mà cha ông họ đã gặp phải. Đồng thời để thỏa mãn phần nào tự ái vì phải thua thiệt trong quá khứ.Về Phú Quí, bạn sẽ ngạc nhiên khi đi ra đường dù già trẻ bé lớn, quen hay lạ gặp nhau họ vẫn cúi đầu chào thân mật. Nếu bạn quá bước đến đây không ai thân quen, bạn có thể gõ cửa bất cứ nhà nào họ cũng đón tiếp nồng nhiệt và dành cho bạn một nơi tốt nhất trong nhà để nghỉ. Lòng hiếu khách này là truyền thống từ bao đời nay ở phú Quí. Điều này không có nghĩa họ cầu cạnh nơi bạn một lợi lộc gì, lại càng không có nghĩa vì nhà họ trống trơn không sợ mất mát của cải. Hãy xem kìa người ta cũng có TV, máy hát, xe gắn máy, mực mỡ đầy nhà nhưng vẫn không sợ bạn cuỗm đi. Nhiều người lạ đến rất ngạc nhiên là sao của cải như vậy mà đôi lúc đến chẳng có ai coi nhà mà cửa nẻo thì bỏ ngỏ. Tôi có một ông chú họ trên đường đi làm rẫy bắt gặt một bao tiền 50 triệu đồng (1993) của một người khác xã đánh rớt. Vậy mà ông ta đứng đợi người mất của đến xin lại. Nghĩ tình, họ cho ông 5 trăm ngàn đồng nhưng ông từ chối, mặc dù ông rất nghèo. Không phải người nào cũng ngay thật và tốt bụng, nhưng cũng khó tìm thấy người tốt ở nơi khác, ngoài Phú Quí.Mới mấy năm gần đây trên báo bên nhà có xuất hiện nhiều bài viết về Phú Quí của ông Lê Hữu Lễ, ông Lễ có nhiều bài tìm hiểu và nghiên cứu sâu sát, tường tận về Phú Quí. Tuy không biết ông là ai, nhưng tôi rất kính nể vì ông viết rất thực và là một trong những người có lòng đối với dân đảo. Nhờ vậy mà bây giờ nói đến Phú Quí không ai còn xa lạ gì nữa. Nhân đây, tôi xin cám ơn chị Thu Nhi, các giáo sư trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn cũ, ông Lê Hữu Lễ, những người đã thể hiện chức năng của người cầm bút thiết tha với quê hương cho dẫu một góc quê hương nằm ngoài biển cả.Rồi đây Phú Quí sẽ không chỉ là tên gọi mà là một hải đảo sung túc với tài nguyên khai thác từ lòng biển bằng phương liến tân tiến và được đầu tư đúng mức về nguồn hàng xuất khẩu. Người lục địa đến Phú Quí không như những viên chức bị "lưu đày" ngày xưa mà họ sẽ là khách tham quan du lịch để thấy rằng họ đã không thiếu sót bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam thân yêu. Người Phú Quí định cư trên thế giới đã - đang và sẽ là nguồn ngoại tệ khá dồi dào góp phần xây dựng đảo.Năm 1984 về thăm Phú Quí, tôi gặp một người thợ nhiếp ảnh đến từ Phan Thiết. Gặp tôi, anh tâm sự: khi ở phan Thiết, gặp người đảo vào với cách ăn mặc, giọng nói, tôi cứ nghĩ đảo là một nơi nghèo khó tận cùng với nhà tranh vách đất, đôi khi còn đánh giá sai lầm bản chất và cách cư xử của người đảo. Đâu ngờ ra đây mới thấy mình sai lầm hoàn toàn.

Hy vọng một ngày không xa, Phú Quí trở nên một điểm gặp gỡ của giới du lịch. Vì nơi ấy với nước cát trắng, cảnh sắc tuyệt vời, với tài nguyên vô tận lòng biển và với tinh thần cầu tiến của lớp trẻ sẽ tạo khung cảnh hòa hợp giữa thiên nhiên và công trình nhân tạo để người dân nơi đây có cuộc sống mà cách đây ba bốn thập niên chỉ là giấc mơ thôi.