Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

CÓ MỘT PHỐ HIẾN

TRONG LỊCH SỬ

 

NGUYỄN LINH GIANG

 

 

Người xưa có câu: "Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến" Vào thế kỷ 16, khi đô thị cảng Vân Đồn (Quảng Ninh) mất dần vị trí hàng đầu mà nó giữ qua các triều Lý, Trần thì ở giữa đồng bằng Bắc bộ, nơi cư dân trù mật, cách không xa kinh thành Thăng Long, đã nổi lên một trung tâm thương nghiệp lớn của Đàng ngoài. Đó là Phố Hiến. Đến Phố Hiến tàu thuyền có thể di lại thuận tiện: đường từ biển vào theo cửa sông Hồng hoặc đường từ cửa sông Thái Bình qua sông Luộc đi vào; ở phía trong từ sông Đáy qua sông Châu Giang tìm sang, rồi từ kinh thành Thăng Long đi xuống. Sách “An nam ký du” (1688) của Phan Đình Khuê đã viết: “Ở đây dừng lại tất cả các thuyền bè từ bốn phương để buôn bán với đường ngoài”. Giáo sỹ đạo tin lành Valentyn đã đến Đàng ngoài vào thế kỷ 17, có mô tả về Phố Hiến: “Đó là một đô thị có khoảng 2000 nóc nhà”. Đặc biệt, giáo sư Richard, người Hà Lan đã viết về Phố Hiến: “thuyền bè đi về Kẻ Chợ số lượng quá lớn đến nỗi khó có thể lội xuống bờ sông được” Phố Hiến xưa, chính là thị xã Hưng Yen ngày nay đã từng có một thời kỳ phồn thỉnh vào bậc Nhất trong lịch sử.

 

* ĐỆ NHỊ KINH KỲ

Chùa Thiên Ứng ở Phố Hiến có một tấm bia dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1625), giải thích: “Đó là nơi đặt tri sở Hiến Nam, án sát của một thừa tuyên. Hiến nam thi lại là một đồ hội như Trường An (kinh đô) nhỏ của bốn phương”. Biên niên sử đời Lê cho biết: “năm Hồng đức thứ 2 (1471) đặt Hiến sát cư ty, gọi tắt là Hiến ty - một cơ quan cấp thừa tuyên, ly sở thừa tuyên Sơn Nam thời Lê đặt ở xã Nhân Dục, Phố Hiến.

Vào thời Lê, khoảng năm 1550, nền nông nghiệp và thủ công nghiệp của nước ta đã phát triển mạnh mẽ, tạo ra sản phẩm hàng hóa đáng kể. Chính cơ sở này đã tạo ra nhu cầu trao đổi và thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Nhờ vị trí đại lý thuận lợi và những tác nhân lịch sử xã hội tác động, Phố Hiến đã hình thành một đô thị thương nghiệp lớn. Sách "Hòa Hán tam tài đô hội" có ghi chép cụ thể các mặt hàng của Phố Hiến xuất sang Nhật Bản, đó là: lụa vàng, linh, đủi, sa, là, nhung, tơ, bông vải, sa nhân, xạ hương, sơn, quế, nhãn, hoặc hương, lưu huỳnh,thiếc, cau, đồ sứ, đồ sành, đồ sơn. Các tài liệu của Nhật còn bổ sung thêm danh sách này: gạo, hồ tiêu, đường, vây cá, cá vàng. Như vậy, chỉ một con đường sang Nhật như thế cũng đủ thấy nội lực của Phố Hiến không đáp ứng nỗi. Không còn nghi ngờ gì nữa, hai mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là tơ lụa và hương liệu đã được đưa từ nhiều địa phương về Phố Hiến. Trong bia của Anh Linh Vương (Theo "Kiến văn tiêu lục"

của Lê Quý Đôn thì Anh Linh Vương là Lê Đình Kiền, trấn thủ Sơn Nam từ 1664 đến 1704, người có công lớn trong việc mở mang Phố Hiến) cũng ghi địa danh của hơn 50 địa phương gần như của cả nước đã từng có quan hệ với Phố Hiến.

Trên bia chùa Thiên Ứng, dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7 còn đọc được câu có giá trị vào bậc nhất: "Nhân Dục, Hoa Dương. Hiến thị thập phường". Chính nhờ điều này mà chúng ta biết được ngay từ năm 1625, trước khi người phương Tây đến đặt thương điểm, Phố Hiến đã tổ chức Phường và đã có đến 10 phường. Như vậy, sự hình thành đô thị và quá trình đô thị hóa tại đây ít nhất cũng có từ thế kỷ 16.

Tuy nhiên, để Phố Hiến trở thành một đô thị thịnh vượng trong giao thương phải kể đến vai trò của người ngoại quốc. Ở Phố Hiến có mặt đông nhất là người Trung Quốc, Sách “Thực lục" chép rằng: vào khoảng năm 1662, nhà Minh (Trung Quốc) bị nhà Thanh (người Mãn Châu) đánh đổ. Nhà Thanh cai trị được ít lâu thì ban hành chính sách đồng hóa. Ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến có khoảng 40 hộ, gồm 300 gia đình đã bỏ quê hương sang Việt Nam để mưu tính làm ăn lâu dài. Có 14 hộ đã đến Phố Hiến làm cho Phố Hiến càng đông vui sầm uất. Họ có nhiều nghề thủ công và biết kinh doanh buôn bán, nhất là về mặt hàng hóa lại có luồng hàng chính đưa từ Trung Quốc sang là những hàng người Việt Nam quen dùng.

Cùng với người Trung Quốc và có lẽ sớm hơn người Trung Quốc, người Nhật đã có mặt ở Phố Hiến. Trong gia phả dòng họ Tiết (người Trung Quốc) tìm được ở Hưng Yên, có đoạn chép "Ông Tiết Đống đến Bắc Hoa hạ phố, huyện Kim Đông, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nước Nam để buôn bán". Gia phả dòng họ Đào lại cũng thấy có chữ "Hòa" nữa, lần này là Nam Hòa: "khoảng năm 1730, họ Đào từ Kim Bằng sang khu Năm Hòa ở Phố Hiến dựng lò nôi". Trong ngôn ngữ cổ, nếu Hoa là người Trung Quốc thì Hòa là người Nhật Bản. Và chính người Nhật Bản chứ không phải ai khác là những người ngoại quốc có mặt rất sớm ở Phố Hiến, họ đã để lại địa danh Hòa (Bắc Hòa, Nam Hòa) là những phố sầm uất nhất của Phố Hiến thời bây giờ.

Các thương gia Châu Á, ngoài Nhật Bản và Trung Quốc, dần dần còn có người Xiêm La và Mãi Lai cũng đến Phố Hiến. Các lái buôn người phương Tây mãi đến năm 1673 mới đến. Người đến đầu tiên là Hartsinek, người Hà Lan, đã đi từ Nhật Bản, đáp chiếc tàu Le Gol đến buôn bán, đã tổ chức ra thương tàu và lập công ty Đông Ẩn (1673). Cũng năm ấy người Bồ Đào Nha đến Phố Hiến nhưng không buôn bán mà chỉ giảng đạo. Các lái người Anh và người Pháo đến Phố Hiến muộn hơn (1672), đầu tiên họ nhờ người Trung Quốc dẫn đường. Năm 1673, Guffoords, người Anh bắt đầu mở thương điểm, còn người Pháp thì mãi đến năm 1680 mới bắt đầu đặt thương điểm.

Cùng với sự hình thành đô thị thương cảng, những hoạt động của khách thương nước ngoài - lần lượt là Nhật, Trung Quốc, Xiêm La, Mã Lai, Hà Lan, Anh, Pháp như một nhân tố kích thích ở thế kỷ 17 đã góp phần to lớn làm cho Phố Hiến phát triển đô thị mạnh mẽ vào bậc nhất.

 

* ĐẶC KHI KINH TẾ PHỐ HIẾN MỘT ĐIỂN HÌNH VỀ CHÍNH SÁCH THUƠNG GIAO MỞ CỬA

Ở Phố Hiến, các mặt hàng được khách thương trao đổi như sau: Hàng nhập gồm có: thuốc bắc, kim chỉ, sa, gấm, nhiễu vóc, trìu, lĩnh, nỉ, chỉ thêu, chỉ kim tuyến, vàng quỳ, bạc quỳ, nhỡn (mắt tượng), gương soi, giấy hoa tiên, mực nho, bút lông, chè bao, phấn sáp, cao đơn, táo tàu, hồng tàu, bát đĩa, ấm chén... Hàng xuất gồm có: từ miền núi đưa xuống như thuốc nam, sơn, thảo quả, sa nhân, tiêu hồi, quế chi, gạc hươu, xương hổ, xương khỉ, hàng địa phương có tơ lụa, gạo thóc, hàng thủ công có hộp, khay, đồ khảm, đồ nan, đồ thờ, đồ gỗ sơn...

Người Trung Quốc ở Phố Hiến ngoài buôn bán còn làm các nghề thủ công có tiếng như dệt chiếu, kéo mật, hộn đường, làm quạt lông, làm bánh kẹo. Kẹo lạc ngon nổi tiếng là kẹo của người Triều Châu mà người ta gọi là kẹo Siu. Lại có thứ bánh phục linh làm bằng củ phục linh ngon nhất Phố Hiến bây giờ. Phố Hiến ngoài việc buôn bán tấp nập trên bến dưới thuyền, người ngoại quốc còn làm các nghề khác nữa như giáo sĩ truyền đạo, làm thông ngôn. Các thầy bói, thầy tướng, thầy số, thầy cúng, thầy địa lý cũng đổ về Phố Hiến. Người Châu Âu vẫn ở khu Phố Hiến cũ (Bắc Hòa hạ phố). Người Nhật, người Trung Quốc mở mang lên các phố trên, lập ra những phố rộng rãi (Bắc Hòa thượng phố, Bắc Hòa trung phố). Chỉ riêng làng người Hà Lan tại đây đã có hơn 100 nóc nhà. Tài liệu Hà Lan còn lưu lại một câu phiên âm chữ quốc ngữ, thổ âm Việt để người Hà Lan khi ấy dạy nhau tán tỉnh dụ dỗ các cô gái Việt: "Con guoomouom bau laom Hoa Loam chia" (Con nhỏ muốn vào làng Hòa Lan chăng?).

 

Sách “Lịch triều dư địa chỉ” cho biết: các hàng hóa nước ngoài khi nhập khẩu, đều phải nộp thuế, gọi là “thuế tuần”. Để đảm bảo nguồn thu thuế vào các hàng hóa ngoại nên đã đặt một đồn thuế chính ở thôn Xích Đằng (Phố Hiến) và đặt một đồn thuế phụ ở bến Kê Châu (Kim Động). Thuế hàng ngoại người nước ngoài phải nộp bằng hiện vật nên đã lập ra một kho hàng bên cạnh đồn thuế chính đều ở thôn Xích Đằng.

 

Phố Hiến trở thành một thị trường tập trung vì ở đây triều đình quy định là "khu cho người ngoại quốc ở" (ngoại quốc chỉ nhân, khu nhi chi nhi). Người Hoa, người Nhật được triều đình ưu tiên cho cư trú, buôn bán và làm ăn lâu dài ở đây. Họ Trịnh đã tích cực dồn các lái về Phố Hiến làm cho lệnh cấm người ngoại quốc trú ngụ ở kinh thành, "thuyền buôn phải đổ ở Lai Triều (Phố Hiến), thuyền trưởng được dẫn đến yết kiến Chúa xong lại trở về Lai Triều chứ không được ở kinh thành" (Thiện Chính Thư).

Trong sách “Lịch sử Thiên chúa giáo", theo lời kể của William Dampier: "Phố Hiến là một đô thị lớn có chừng 2000 nóc nhà và một phố dành riêng cho người Tàu, người Nhật và lại có một trại lính khá đông". Dampier còn chép : "Nhà đức Giám mục ở về phía tây bắc thành phố, trên bờ sông, xung quanh xây tường, mở cửa ra một phố sầm uất hai bên có nhà ở, mở cửa suốt ngày và ngay cửa có phòng tiếp khách ngoại quốc.

Sang thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 thì hai tấm bia: chùa Thiên Ứng (bia thứ hai) dựng năm 1709 và bia chùa Chuông (Kim chung tự) dựng năm 1711 đã cung cấp đầy đủ tên của 20 phường thị của Phố Hiến. Năm 1895, G.Dumoutier có công bố một bản đồ Phố Hiến. Bản đồ này chỉ tập trung thể hiện khu vực phía Bắc trung tâm Hưng Yên ngày nay. Từ đó có thể thấy rằng, những ngày đầu và buổi thịnh vượng nhất, 20 phường thị của Phố Hiến lúc đó phân bổ ở hai khu vực chính: Bắc Hòa và Nam Hòa.

 

* PHỐ HIẾN ĐI VÀO QUÁ VĂNG BÀI HỌC LỊCH SỬ

Vào thế kỷ 18, nhà Lê thấy việc ra vào của người ngoại quốc ở Phố Hiến có nhiều điều bất lợi (?) nên đã thay đổi hẳn chính sách. Nhân lúc có một người Anh xúc phạm vào quốc thể: đi võng điều - phạm vào luật cấm của nhà vua, vua Lê Hy Tông lấy cớ đó để đuổi cha cố và thầy tu, trục xuất người ngoại quốc. Các lái Âu Châu dần dần rời khỏi Phố Hiến. Thương điểm của người Hà Lan rời Phố Hiến năm 1701. Đây là thương điểm đứng vững lâu nhất, 64 năm, trải qua 13 viên giám đốc, người đầu tiên là Hartinek và người cuối cùng là Jacob van Loo. Tiếp sau người Hà Lan, người Anh, người Pháp cũng lần lượt ra đi. Phố Hiến từ đó vắng dần. Cảnh vật đổi thay. Dòng sông Hồng từ nửa sau thế kỷ 17 đã thu hẹp dòng chính, chuyển mình lăn hẳn sang địa phận huyện Lý Nhân (Nam Hà). Dòng sông từ chỗ chảy sát ngay Phố Hiến, trên bến dưới thuyền đã dịch chuyển cách xa Phố Hiến gần 2 km. Và ở đây cũng không thể không nói đến sự đổi thay bước ngoặt mới của lịch sử: sự trỗi dậy

của đô thị cảng Hải Phòng. Phố Hiến ngày càng mất dần vai trò đô thị thương nghiệp và cảng sông phát đạt.

Phố Hiến đã hình thành và phát triển đô thị, trở thành một đô thị thịnh vượng và tiêu biểu bậc nhất của nước ta vào thế kỷ 17. Đáng lẽ, Phố Hiến hoàn toàn có thể phát triển từ một đô thị thương nghiệp lên một đô thị công thương lớn. "Tuy nhiên, Phố Hiến đã không

nhân đà ấy mà thăng hoa được do sự thay đổi chính sách của triều đình, sự ra đi của khách thương nước ngoài và hoạt động ngoại thương, cả sự thay đổi của điều kiện địa lý tự nhiên. Thời huy hoàng của Phố Hiến ngày một lùi xa. Âu cung không thể thoát khỏi lẽ đời, khi mà Phố Hiến không còn hội tụ được các yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Bài học lịch sử vẫn còn nguyên giá trị.