CHỢ TRỜI GÒ DẦU HẠ
HAI BẦU
Hai nước Việt Nam Cộng Hòa và Vương Quốc Kampuchia có biên giới rất dài, từ ngã ba biên giới Việt Miên Lào đến vịnh Thái Lan, người dân hai nước có thể qua lại bằng 12 ngã đường chánh thức và vô số ngã khác nếu chỉ đi bộ. Hàng thế kỷ qua, dân chúng hai bên luôn luôn có thói quen qua lại biên giới trao đổi hàng hóa và đôi khi người Việt còn qua đất Miên để mướn ruộng canh tác. Một số lớn người Việt đã sinh sống trên đất Miên lâu đời, lập nên một làng đánh cá Việt Nam trên Biển Hồ. Năm 1954 biên giới đóng lại, ngăn cách hai nước, nhưng nhu cầu trao đổi của dân chúng vẫn còn nguyên. Hình thức buôn lậu do đó phát triển mạnh. Vả lại suốt 20 năm dài chiến tranh, kinh tế trì trệ, buôn lậu cũng là cách sống còn của người dân trong cái thế chẳng đặng đừng.
Từ giữa thập niên năm mươi đến giữa thập niên bảy mươi, người ta ghi nhận có sáu “Chợ Trời” dọc theo biên giới, là nơi trao đổi hàng hóa lậu thuế, giao chuyển thư từ và cũng là nơi các phe phái chính trị trong cuộc chiến lợi dụng: Chợ Trời Hà Tiên, Chợ Trời Tịnh Biên (Châu Đốc), Chợ Trời Thường Phước (Hồng Ngự), Chợ Trời Sở Thượng (trên đất Miên giáp quận Hồng Ngự). Tỉnh Tây Ninh có hai Chợ Trời là Phước Tân (quân Phước Ninh) và Gò Dầu Hạ. Chợ Trời Gò Dầu Hạ lâu đời nhứt cũng là chợ lớn nhứt.
ĐỊA ĐIỂM CHỢ TRỜI GÒ DẦU HẠ
Từ Sàigòn, quốc lộ 1 chạy về hướng Bắc lần lượt đi ngang qua 2 quận lỵ Củ Chi và Trảng Bàng rồi tới quận lỵ Gò Dầu Hạ, nơi cách Sàigòn 64km. Tẻ về hướng Tây, vượt qua cây cầu bắt qua sông Vàm Cỏ Đông, chạy thêm 11km nữa qua khỏi phần đất An Thạnh, đến xã Lợi Thuận, quốc lộ 1 sẽ vượt qua biên giới Miên rồi tiếp tục chạy Nam Vang. Chỗ biên giới này bên Miên giáp xã Bavet, quận Svay Teap, tỉnh Svay Riêng. Hai trạm kiểm soát biên giới của hai nước đặt cách nhau 1km và giữa khúc đường không có nhà cửa đó, người Việt và Khmer ngồi chồm hổm họp chợ trên lề đường. Ban đầu chỉ có một ít người, rồi lần lần phát triển thành một ngôi chợ qui mô.
Tùy theo tình hình bang giao hai nước, tình hình an ninh trong vùng và đôi khi cũng tùy theo sự tùy tiện của chánh quyền các cấp tại địa phương mà chợ khi thì họp tại trạm kiểm soát, khi thì vào hẳn trong đất Miên, khi qua đất Việt, khi gần đường, khi xa trong ruộng, có khi họp ban ngày, cũng có khi họp ban đêm. Năm 1963, chánh quyền quận Gò Dầu Hạ cho phép cất ba dãy nhà tôn không vách để làm thành ngôi chợ dài khoảng 200m, ngang 60m nằm trên đất Việt. Mỗi dãy chia ra nhiều căn và mỗi căn là một chủ. Căn này dọn quán ăn, căn kia chứa hàng, căn khác bày hàng hóa. Những người bán chút ít như vài chục đôi dép, năm mười con gà.. thì ngồi dưới đất trước các cửa hiệu. Vì đây là nơi tạm bợ nên không có tên quán, tên cửa hiệu, không cả bàn ghế. Khách cứ lần theo chợ tìm món hàng mà mua. Suốt ba dãy chợ gồm hàng trăm căn, nhưng không buổi nào để trống một căn. Bên Việt chiếm hai dãy, bên Miên chiếm một dãy và số người theo hè đếm không hết. Dĩ nhiên phương tiện vệ sinh gần như không có và người ta tha hồ phóng uế trên các thửa ruộng chung quanh.
Giờ họp chợ được ấn định từ tờ mờ sáng tới khoảng ba giờ chiều. Người đi sớm nhứt vào chợ vào lúc 5 giờ, có người còn đi lúc 4 giờ sáng để có hàng đến mua liền. Họ cầm đèn hay đuốc di động giữa đồng ruộng trong đêm tối, ánh đuốc chập chờn như đoàn ma trơi.
CÁCH VÀO CHỢ TRỜI
Không phải người Việt nào cũng có thể đi vào chợ trời. Lúc đó dưới chân cầu hai bên sông Vàm Cỏ Đông là hai đồn Địa Phương Quân có nhiệm vụ bảo vệ cầu, trên mặt đường hai bên dốc cầu có hai trạm kiểm soát của Cảnh Sát và Quan Thuế. Ban đêm mặt cầu đóng lại bằng hai con ngựa kẽm gai và sáng 5 giờ thì mở cửa cổng. Tại trạm kiểm soát phía bên chợ có tấm bảng: “Cấm người ngoài tỉnh Tây Ninh không được đến vùng biên giới”, có nghĩa là Chợ Trời chỉ dành riêng cho dân Tây Ninh, đồng bào các địa phương khác, phần nhiều là Sàigòn - Chợ Lớn, sẽ bị xét hỏi và mời trở về. Tuy nhiên, luật pháp dù có chặt chẽ đến đâu cũng không bít được kẽ hở và đồng bào các nơi sẽ có 1001 phương kế tiến vào đất Miên để mua sắm hàng hóa bị cấm ở thị trường.
Trước khi xe “Lam” ba bánh ra đời, giới buôn bán đi từ chợ Gò Dần Hạ đến chợ trời bằng xe máy dầu lôi. Đây là một loại xe đặc chế của quận Gò Dầu Hạ, loại xe mô tô còn lại từ thời Pháp thuộc (thông dụng là hiệu BMW), phân khối rất lớn và máy rất mạnh, không phải những xe gắn máy của Nhật sau này. Ngoài cái thùng lôi thô kệch, các bác tài còn gát thêm hai miếng ván nằm ngang để có đủ chỗ cho cả chục người ngồi, cộng thêm quang gánh. Lối chuyên chở này hoàn toàn trái luật giao thông, nhưng các thầy chú thường ngó lơ, ít khi làm khó dễ đồng bào. Chở nhiều rủi có tai nạn, rán chịu. Nhưng vào các năm 1966-1967, xe Lam thông dụng ở Sàigòn và lan truyền tới đây. Đây là loại xe Lambretta do Ý sản xuất, được cải tiến thành ba bánh, có đóng cái thùng nhỏ, khách ngồi trên xe nệm dọc theo hông xe, hàng hóa chất trên mui, an toàn thoải mái hơn xe mô tô lôi nhiều, mà giá cả không chênh lệc bao nhiêu. Sau này xe Daihatsu 4 bánh do Nhật sản xuất thay thế xe Lam. Bên cạnh những chiếc xe chở mướn chuyên nghiệp còn có thật nhiều xe gắn máy hai bánh, xe đạp đi lẻ từng người hoặc làm xe ôm chở mướn.
Khoảng 5 giờ sáng, hàng trăm xe đủ loại nổ máy chờ sẵn trên dốc cầu như các cua-rơ trong trường đua chờ phát súng lịnh; khi người lính ra mở cổng, hàng trăm chiếc xe lao qua cầu. Người ta tranh nhau vào chợ trước để chọn được mối tốt và hàng tốt. Vào lúc này các bạn hàng bên Miên cũng lặn lội đem hàng hóa đến đây.
HÀNG HÓA TRONG CHỢ TRỜI
Hai nước Việt Miên tuy rằng nằm cạnh nhau nhưng có nhiều thổ sản và nhiều hàng sản xuất trong nước khác nhau, do văn hóa và điều kiện địa lý, khí hậu khác nhau. Bên cạnh đó, hai nước còn có sự khác biệt rõ ràng về chính trị nên hàng hóa nhập cảng chánh thức cũng khác nhau. Bên Việt thân Mỹ nên “ăn hàng” của các nước thuộc Thế Giới Tự Do. Bên Miên trung lập nên có nhiều thổ sản nhập cảng từ Pháp và Trung Quốc. Do bản tánh của từng con người khác nhau nên có rất nhiều người Khmer thích xài đồ Mỹ, trong khi thật nhiều người Việt lại thích xài đồ Trung Quốc hay đồ Pháp.
Hàng Miên sản xuất gồm có: cam, me, gà, khô cá xủ, cá lóc, cá tra, cá xấy, cá hấp, đậu xanh, đậu nành, hột é, xà bông thơm nội địa, dép cao su, dầu gió, lụa Mỹ-A, lạp xưởng, bún tàu, cần sa, á phiện (từ Lào qua), khỉ đột, khỉ con, v.v.
Hàng Pháp gồm có các thứ rượu Martell, Dubonnet, Peppermint, Anis, Gin, nước suối Vichy, bơ Bretel, xì dầu Maggi, bánh ít qui LU, bánh Champagne, Chocolat, thuốc trụ sinh và các loại thuốc không có ở Việt Nam, v.v..
Hàng Trung Quốc: dầu cù là, bút máy có hình khỏa thân, bình thủy hiệu Kim Tiền giỏ tre, thuốc kích dâm, thuốc uống hay chích cho mập, thuốc trị ung thư hay tim la, pháo, chén kiểu, dĩa kiểu, đũa sơn, gà-mên, thau đựng nước tráng men, rượu Ngũ Gia Bì, rượu Mai Quế Lộ, v.v.
Hàng Việt Nam: đồ nhôm, vải màu, vải bông, xà bông giặt đồ, thuốc Bastos, phụ tùng xe đạp, xe mô tô, dầu xăng, xe gắn máy Honda, nước mắm vô chai, rau cải Đà Lạt, trái cây các loại như chôm chôm, xoài, măng cụt, dưa hấu, bàn ghế tủ giường bằng gỗ, ghế ni-lông, sách Việt ngữ như tiểu thuyết tình cảm, kiếm hiệp, truyện Tàu, sách học tiếng Pháp, tiếng Anh, tạp chí Phổ Thông, Thời Nay, bản nhạc, v.v.
Hàng Hoa Kỳ: Hàng trong PX Mỹ (loại hàng đặc biệt bán cho quân đội Mỹ trấn đóng ở Việt Nam nhưng được bán lậu ra ngoài), như nước ngọt, bia lon, bánh kẹo, truyền hình, radio, quần jean, xà bông bột, ly, chén, nĩa muỗng, vali da, ống vố, thuốc thơm các loại, v.v.
NỤ CƯỜI VÀ NƯỚC MẮT TRONG CHỢ TRỜI
Dĩ nhiên đi buôn thì phải có lời. Buôn bán trong chợ trời càng dễ làm giàu. Nhưng trong việc buôn bán luôn luôn có lừa đảo, gian lận và trong chợ trời các tệ nạn nầy xảy ra nhiều hơn các nơi khác vì nơi đây là chỗ gần như không có luật pháp.
Hàng giả:
Người Việt có tâm lý rất buồn cười là cái gì truyền miệng úp úp, mở mở thì có nhiều người tin, cái gì giấy trắng mực đen rõ ràng như thông cáo của chánh quyền thì bị cho là “hàng giả”. Một tâm lý khác là tôn sùng đồ ngoại, cái gì của Tây, của Tàu, của Mỹ.. là nhất, cái gì sản xuất trong nước thì chê là đồ “lô-can” không thèm xài. Bọn gian thương thường dựa vào tâm lý này để tiêu thụ hàng giả mạo.
Dầu gió hiệu Con Ó của Trung Quốc có kẻ pha làm 3, 4 ve. Hàng bông hay vải trơn đem nhuộm mặc nưa nói gạt là hàng Mỹ A bán giá cao gấp hai, gấp ba. Rượu thì từ Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì của Tàu đến rượu Tây, rượu Mỹ cũng có thể làm giả. Người biết thóp đòi khui ra uống thử thì họ nói đây là loại nước nhì, dở hơn một chút. Dầu cù là sản xuất ở Thái Lan đựng trong hộp thiếc màu vàng in chữ đỏ được làm giả rất khéo. Người mua xài lớp trên là cù là thiệt, lớp dưới chín phần mười là sáp pha màu vàng. Nhiều loại thuốc Tây và cao đơn hoàn tán bán ở chợ trời cho rằng do những dược phòng danh tiếng ở Tây, ở Hồng Kông, ở Trung Quốc, ở Nhật Bản.. sản xuất là những thứ bí truyền, là những phát minh tân tiến, là thần dược, trị được các bệnh nan y như ung thư, giang mai, lậu mũ hay thuốc cường dương.. vẫn có người nhẹ dạ mua về mới biết tiền mất tật mang. Nhiều người ở Sàigòn lặn lội đến chợ trời mua lầm hàng sản xuất ở Chợ lớn.
Lừa đảo:
Chợ trời là nơi thi thố thủ đoạn của các bậc yên hùng, triết lý sống thể hiện rõ nét nơi đây là “khôn sống, mống chết”. Có vốn lớn ra làm ăn mà không rành những mánh mung thì rất dễ sạt nghiệp. Điển hình là cam và me hột, Hai loại thổ sản này sản xuất ở tỉnh Battambang hay các tỉnh khác trong nội địa Cao Miên. Số lượng buôn bán rất lớn nên việc chuyên chở đến chợ trời rất là vất vả, vì phải xử dụng nhiều phương tiện như xe lửa, xe cam nhông, xe lam, xe đạp thồ, và “tiền đường” lo lót cho thầy chú không phải là ít. Có thể vài chuyến đầu thuận tiện, có lời. Nhưng có những chuyến hàng đem vào đến chợ trời thì chủ hàng lâm cảnh cười đau khóc hận. Lý do là giá cả do các chủ vựa ở Sài Gòn ấn định chớ không phải do người bán hay bạn hàng trung gian ngồi tại chợ ăn tiền ngọn. Lý do thứ hai là hối xuất thay đổi và đồng bạc Việt Nam thường hay mất giá. Thí dụ vốn một trái cam ở Battambang là 4 ria, trị giá 12 đồng Việt Nam. Sau bao tốn kém, vất vả đem đến chợ trời cũng được bạn hàng cho giá là 12 đồng. Đành bán lỗ chớ không lẽ mướn xe chở về. Những hình thức mánh mung lừa đảo khác từ lớn tới nhỏ cũng được sáng tạo càng ngày càng nhiều và những tay mơ thường hay mắc bẫy.
CHÁNH QUYỀN HẠ CỐ
Chợ trời Gò Dầu Hạ là một thực thể rõ ràng dưới ánh mặt trời và kéo dài đến 20 năm, chánh quyền các cấp từ trung ương đến tỉnh, quận, xã cả hai bên Kampuchea và Việt đều biết đây là nơi bán hàng lậu thuế bất hợp pháp. Biết nhưng không cấm đoán hay cấm đoán không nổi. Có thể những báo cáo của tỉnh trình về trung ương bào chữa rằng chợ trời là nút hơi xả bớt những áp lực về kinh tế dân sinh, duy trì chợ trời là cách tạo công ăn việc làm cho một số rất lớn dân trong tỉnh. Nhưng thực tế chợ trời cũng là nguồn lợi cần được nuôi dưỡng cho viên chức chánh quyền sở tại, nhứt là ngành Cảnh Sát, Quan Thuế, Thuế Vụ. Lúc đó hàng hóa từ bên Miên qua được bán tự do trong phạm vi quận Hiếu Thiện (tên mới của quận Gò Dầu Hạ). Nếu hàng đem ra ngoài quận thì bị qui là hàng lậu thuế và có thể bị bắt. Từ Gò Dầu Hạ xuống Sài Gòn có những trạm kiểm soát hổn hợp tại Trảng Bàng, Suối Câu, Suối Cụt, Củ Chi, Hốc Môn.. nhưng hàng vẫn qua lọt đều đều vì tệ nạn thầy chú ăn chia. Các bạn hàng chuyên nghiệp, trong đó có các “đại gia”, mỗi chuyến hàng chở cả xe cam nhông, rất ít khi bị bắt, còn tay mơ hay cò con, không thông thạo đường lối rất dễ bị phạt hay bị tịch thu hàng hòa, thành trắng tay.
Trên đất Miên cũng vậy, thầy chú xem mặt và đánh giá món hàng để thâu “tiền mãi lộ” sao cho bạn hàng có lời chút đỉnh để còn hy vọng mà đi chuyến sau.
Sự “thi hành luật” của người có quyền có chức nhiều khi cũng buồn cười. Năm 1956, lúc đó chợ trời còn họp trên đất Miên, tại trạm kiểm soát có lịnh bắt buộc phụ nữ Việt Nam sang buôn bán phải mặc chăn (sà-rông) như người Miên, ai không tuân lịnh sẽ bị đuổi về. Các bà các cô sáng trí, thủ sẵn cái chăn trong thúng, khi sắp qua cổng thì vo ống quần lên tới đầu gối rồi mặc chăn vào. Buôn bán xong, đi khỏi cổng một khoảng thì cởi chăn ra, bỏ ống quần xuống trở về đất Việt. Có mấy bà người Bắc mới di cư chưa biết cái mánh nầy, phải núp dưới bờ ruộng cởi quần ra, mặc chăn vào. Cái “luật” kỳ cục nầy do viên trưởng trạm tự ý ban hành, đã thấu tai chính phủ Nam Vang và ông Bộ Trưởng Thông Tin ra lịnh hủy bỏ.
Những tài xế xe Lam, xe lôi, xe ôm cũng có mánh riêng. Nhiều kẻ nhàn du từ Sài Gòn Chợ Lớn lên muốn đi xem cho biết chợ trời hay mua vài món hàng lạ, những Việt Kiều hồi hương nhắn bà con xuống chợ để hàn huyên, những người tỵ nạn chính trị giả hay thiệt, những kẻ giựt hụi, trộm cướp muốn vượt biên.. cứ đến gặp những tài xế chuyên nghiệp, trả đúng giá thì được bảo đảm đến nơi an toàn. Giá những cuốc xe “điều đình bảo đảm” nầy thường cao gấp ba, gấp năm, hay gấp mười lần cuốc xe thường. Vì vậy cái bảng “Cấm người ngoài tỉnh Tây Ninh không được viếng vùng biên giới” bị mờ dần với nắng mưa mà không ai buồn chăm sóc.
CHỢ TRỜI SAU NĂM 1975
Có người cho rằng biến cố tháng 4 năm 1975 là một cuộc đổi đời vì nếp sống của người dân thật sự bị xáo trộn lớn lao. Ngày xưa ta quen với cái suy nghĩ “phi thương bất phú”, sau 1975, nếu ai còn buôn bán thì được qui vào thành phần “phe phẫy, ăn bám xã hội”. Muốn được tuyên dương thì phải tận lực lao động sản xuất và giao cho nhà nước cái khâu quản lý tất cả các ngành công, thương, nông nghiệp. Nhà nước sẽ “bao cấp” hết tất cả sản phẩm của xã hội. Nhưng những nhà lập thuyết Cộng Sản lại quên một câu nói mộc mạc của người dân quê Việt Nam: “cha chung không ai khóc”. Chẳng những không khóc mà còn phá hoại, nên nền kinh tế nước nhà, như chiếc xe không thắng, lao nhanh xuống hố. Đến tận đáy năm 1985, thấy toàn bóng tối, nên cấp lãnh đạo CS phải thì hành chánh sách đổi mới từ năm 1986.
Trong thời gian này các chợ bị dẹp bỏ và chợ trời Gò Dầu Hạ cũng như các chợ trời khác đều cùng chung số phận. Nhưng bao giờ con người cũng cần sống và buôn bán xưa nay là hình thức dễ nhứt để làm ra tiền. Vì vậy trong lúc ấy buôn lậu lại càng nở rộ dù bị cấm đoán gắt gao. Ngày trước hàng hoá từ Kampuchea xuống mới bị qui là buôn lậu, ngày nay con gà, ký thịt, bao gạo, tạ than.. từ tỉnh về Sài Gòn đều là hàng bất hợp pháp và có thể bị tịch thu. Nhưng cũng y như chế độ trước, mọi sự đều được điều đình, chạy chọt và hàng hóa vẫn lọt qua các trạm kiểm soát dễ dàng, để cung cấp sự sống cho ba triệu người dân Sài Gòn. Cũng như thời trước, các người có trách nhiệm tại các trạm kiểm soát hổn hợp Trảng Bàng, Suối Sâu, Suối Cụt, Củ Chi.. bao giờ cũng nặng túi. Chỉ khác một chút là ngày trước bạn hàng gọi họ là thầy chú, bây giờ gọi họ là cán bộ.
Năm 1986, chánh quyền đổi mới tư duy, khuyến khích buôn bán. Một thời gian sau đó, tuy chợ trời không được tái lập nhưng hàng hóa Kampuchea vẫn thâm nhập rất nhiều vào thị trường Việt Nam. Thay vì đi qua cổng biên giới, người ta thuê dân khuân vác mướn (người Bắc gọi là cửu vạn) đi vòng hai bên cánh. (Việt Nam lúc này không còn chiến tranh, không sợ máy bay bắn cũng như không sợ đạp phải mìn bẫy). Việc chuyển vận khó khăn hơn nên hàng phải là loại có giá trị cao như thuốc lá, đồ điện, ma túy... chẳng hạn. Giữa thập niên 1990, chánh quyền có cho tái lập một ngôi chợ tại biên giới, gọi là chợ Hữu Nghị, có lẽ chỉ để trao đổi hàng thổ sản. Được ít năm chợ này cũng bị dẹp vì không còn hợp thời.
Chiến tranh Việt Nam đã đi vào lịch sử, Tây Ninh là một phần của Việt Nam và chợ trời Gò Dầu Hạ cũng đã một phần của lịch sử Tây Ninh. Điều gì xảy ra đã xảy ra, nói như cựu Tổng Thống Bill Clinton, “Chúng ta không thể thay đổi lịch sử”, chúng ta chỉ có thể hoài niệm quá khứ để nhắc nhau nhớ rằng chiến tranh là tàn phá, là tang tóc, là hận thù giăng mắc, là địa ngục.. Ngày nay, cuộc chiến đã qua rồi và hòa bình nếu chưa phải là cảnh thiên đàng thì ít ra cũng là một cõi bình an để xây dựng. Ước mong chiến tranh đừng bao giờ tái diễn.