Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

BỘT GẠO LA KHÊ

 

THÂN TRỌNG TUẤN

 

Cám ơn anh Lê Quang Bình đã cho nhiều tư liẹu của họ Lê

 

Làng La Khê thuộc huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa Thiên. Từ Kinh Thành ra hướng đông bắc, tức ra đồn Mang Cá Lớn, xong qua Bao Vinh, hướng về phía Bàu Đồn, qua ngả lang Thế Lại Thượng, Thế Lại Hạ, đi thêm khúc nữa là tới. Làng La Khê nằm dọc theo con hói nhỏ. Trong làng có mấy cái gò đất. Gò chính giữa làng dùng làm nơi xây lăng ông khai canh họ Lê.

Theo chuyện kể, thì khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, có viên phó tướng họ Lê theo phò. Viên phó tướng họ Lê này thuộc dòng dõi vua Lê Lợi. Tông tộc từ khi theo vua dời đô ra Thăng Long, hệ phái của viên phó tướng này chọn làng La Khê thuộc tỉnh Hà Đông làm nơi định cư. Vào Nam, vì lập được nhiều công trạng nên được chúa Nguyễn phong đất thuộc vùng phía bắc sông Hương để lập thôn ấp, bèn lấy tên là La Khê để tường nhớ cố hương. Khi mất chôn ở đấy.

 

* Thượng Hạ La Khê

Năm 1775, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân, cho san bằng hầu hết các lăng mộ các tiên vương chúa Nguyễn cùng tổ tiên các công thần xứ Đàng Trong. Lăng viên phó tướng họ Lê cũng bị triệt hạ, mất hết dấu tích. Sau này con cháu nương theo lời truyền, thuê người phát dọn bụi lùm xong dùng trâu cày để tìm di tích. Kết quả chỉ thấy tấm mộ bia bằng đá bị đập bể thành ba bốn mảnh mà thôi. Con cháu họ Lê cho xây lại lăng mộ và nhà thờ Tổ. Tên của vị Tổ vì lâu đời, lại theo tinh thần kiêng cữ sợ bị phạm húy không dám nói động đến tên cha mẹ tổ tiên nên con cháu về sau không còn nhớ rõ. Bài vị chỉ ghi là Lê Văn Lang để thủ lễ.

Theo gia phả họ Lê do ông Lê Văn Ký soạn và ông Lê Tịnh thuộc đời thứ 12 dịch từ chữ Hán ra chữ Việt La Tinh và hiệu đính, thì ngôi mả Tổ phát ngành văn, nhưng lại bị độc đinh, cho dù có được thêm con trai thì cũng sẽ bị chết yểu hoặc vô tự. Thành thử truyền xuống đời thứ tám, chỉ có bảy người con trai, mỗi người cho một đời. Sau cuộc đại biến Phú Xuân 1775, tuy ngôi mả tổ cùng mấy ngôi mộ đời kế tiếp bị san bằng, xương cốt chôn lạc nơi khác, con cháu không ai biết được, nhưng về sau dòng họ Lê lại hưng thịnh lạ thường, văn võ rỡ ràng. Truyền tông đời thứ tám là ông Lê Văn Hộ có tài chữa bệnh, sung chức Ngự Y. Khi ông Hộ gần 50 tuổi, đang công cán tại Quảng Trị, thì được triệu vào Kinh trị chứng đẻ khó cho một bà Phi mà quan ngự y tại triều cũng không chữa được. Lê Văn Hộ vào, cho thuốc giục đẻ, bà Phi sanh ngay, mẹ tròn con vuông. Vua (gia phả không ghi vua nào) hài lòng, tính chuyện ban thưởng. Trong khi chừa cho bà Phi tại Kinh Đô, thì ở Quảng Trị, thuộc địa phận huyện đường do ông trấn nhậm có chứng dịch tả, người chết rất nhiều. Vợ và con của Lê Văn Hộ cũng chết sạch. Lê Văn Hộ buồn chán, kịp vua triệu vào tính chuyện ban thưởng. Lê Văn Hộ tâu hết gia cảnh hoạn nạn, xin cáo quan về hưu. Vua thấu hiểu, cưới cho Lê Văn Hộ một lúc năm bà vợ để kiếm con nối dõi tông đường. Lại ban cho một nghìn mẫu đất chưa canh tác gọi là lộc triều đình thưởng cho vị thầy thuốc mát tay. Lê Văn Hộ lạy tạ nhận lãnh. Ra khỏi Kinh Thành, theo đường thiên lý, xuôi về hướng Nam cách xa sông hương cả trăm dặm. Đến địa phận làng Truồi, thấy non nước hữu tình bèn xin vua cho chọn đất ở đây. Vua ưng cho Lê Văn Hộ khai khẩn lập ấp. Ngoài huyện Quảng Điền có xã La Khê là nơi lập nghiệp đã được tám đời. Nay tuy lập

ấp mới nhưng không vì thế mà bỏ quên cội nguồn, Lê Văn Hộ bèn cải lại làm La Khê Thượng. Ấp mới tại Truồi là La Khê Hạ. Thượng Hạ cách nhau hơn trăm dặm đường quan, đi bộ cả ngày mới tới nơi. Tại Huế phân chia ranh giới làng xóm chỉ cách nhau bờ tre, con đường, cái hói, khúc sông hay một cánh đồng là cùng. Vấn đề La Khê Thượng Hạ chỉ dùng riêng trong hệ họ Lê của ông Hộ, chứ không được chính thức chấp thuận trên văn thư hành chánh, vì vậy ở Huế ít người biết đến ấp La Khê Hạ bên cạnh sông Truồi dưới vùng Cầu Hai Đá Bạc. Đất nước Thừa Thiên xưa nay vẫn có nhiều làng phân chia thượng hạ đông tây xa ngái nhưng không quá xa cách nhau như thượng hạ La Khê. Xa xôi cho lắm cũng chỉ như hai làng Dã Lê Thượng và Dã Lê Hạ cách nhau cả một cái đầm! (Chữ nho chữ Hán cổ hủ rắc rối chào lui nhường chỗ cho chữ Quốc Ngữ. Có người giỏi chữ Việt gốc La Tinh viết thành Giả Lê, Giạ Lê hoặc Dạ Lê thiệt là vô cùng thông thái!)

 

* Họ Lê hưng phát

Ông Lê Văn Hộ sau khi theo lệnh vua lập gia đình lần thứ hai, cưới luôn một nghìn năm bà, sống cuộc đời nhàn hạ tại ấp tân lập La Khê Hạ. Bà vợ Cả không con. Bốn bà kia đều

sanh con trai. Như vậy, dòng thứ nhất vô tự. Bốn dòng còn lại đều có con nối dõi. Ông cho bà thứ năm và con trai của bà lên thủ từ tại La Khê Thượng. Từ đây về sau, dòng họ Lê hết nạn độc đinh. Con cháu đầy nhà, thành công rạng rỡ. Xuống cho tới đời thứ mười hai, vẫn lót chữ Văn hoặc tên không có chữ lót. Tới đời thứ mười hai trở đi, con cháu vẫn giữ nguyên họ Lê nhưng chữ lót lại tùy ý chọn cho con như chữ Quang, chữ Bá, chữ Đình, v.v… Có người lấy họ vợ ghép vào tên con. Tên gọi từ tên đơn như Bình, Liễn v.v… đặt thêm tên kép (hai chữ như Diệu Hương), tên mền (ba chữ như Bạch Hải Đường) hay tên đụp (bốn chữ Thanh Hương Như Ý)... Theo sự dò hỏi, con cháu họ Lê phát ở nhánh Nhì, nhánh Ba và nhánh Bốn. Nhánh Năm ở La Khê Thượng không phát lắm. Nhà thờ Tổ vẫn ở La Khê Thượng, nhưng hàng năm con cháu tế kỵ đều quy về La Khê Hạ bên cạnh sông Truồi. Hiện nay, con cháu họ Lê lên đến cả ngàn người. Gần một nửa số người trong họ, Sau 1975, ra sống ở các nước ngoài như Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi và một số nước bên Âu Châu.

 

* Bột gạo La Khê

Người Huế khi nhắc tới tên làng La Khê là ám chỉ La Khê Thượng ngoài Quảng Điền, phía bắc Hương Giang, nổi tiếng với món bột gạo "La Khê". Gần La Khê có làng Thế Lại, phân chia Thế Lại Thượng và Thế Lại Hạ. Hai làng Thế Lại cách nhau "cẩm tỉ" chưa đầy ba bước, có mô "xa ngái" cả một ngày đường như Thượng Hạ La Khê! Một điều hi hữu là con cháu ở La Khê Hạ dưới Truồi, có người tuy đã lên lão mà vẫn chưa bao giờ nghe biết cái thứ bột gạo La Khê, nói chi chuyện thưởng thức? Gặp người hỏi đến, trả lời qua loa rằng “cái thứ bột gạo nớ con liền bà tui vẫn làm”! Lần khân hỏi tới, sẽ được nghe trả lời đại khái "mấy cái chuyện bột biếc thì phải hỏi con liền bà tui mới đặng, chứ tui không quen. Chờ khi mô có dịp, tui sẽ nói với con liền bà tui...".

Quý hóa chi mô, mọi lần bột gạo làng La Khê vẫn bán đầy chợ, nhiều nhất là tại chợ Đông Ba. Bán từng mủng, từng gánh. Bán dễ dàng vì đây là thứ bột ngon nhất hạng, không thể so sánh. Giá cả lại bình dân. Người ta mua về thường dùng cho nhiều việc, nhất là đổ bánh bèo, gói bánh nậm, nhưng tuyệt nhất là để gói bánh lá ăn với chả tôm. Ui chu chao! Lại một thứ khi ăn chỉ biết ngậm mà nghe cái thi vị của cuộc đời đang thì thầm mấy lời rất Huế! Bánh lá chả tôm nguyên thủy không bán ngoài đường ngoài chợ. Phải có chuyện chi như ngày kỵ, ngày chạp, hay ngày tết ngày nhứt để mấy bà mấy cô ưa trổ tài trổ tiếc như vẫn thường thấy trong những nhà quyền thế danh gia, lâu lâu bày ra làm cái chuyện đổi gió chút chơi! Bột làm bánh có nhiều thứ, nhiều loại hạng. Duy chỉ có mỗi cái thứ bột gạo chính cống làng La Khê mới chịu được sự cuốn tròn khít rịt cái bánh lá nhúng nhính mà không gãy đổ xếp vòng tròn trong dĩa sứ men xanh vây quanh mấy lát chả tôm đỏ nâu óng ánh như e dấp “dem thèm” khiến vừa mới thấy thoáng qua đã làm cho "người ta" bắt rệu nước miếng.

Khi nói tới bột gạo, người ta thường hình dung một thứ trắng mịn đựng trong bao, trong hũ, tuyệt đối tránh xa gió máy vì gặp gió, bột sẽ dễ bị cuốn theo làm mây trắng bay! Bột gạo La Khê lại khác. Bột nằm trong thúng, trong mủng trông giong như mấy con nhộng không đầu, hoặc như bó đũa tre cột thắt lỏng le, mấy cọng bột to dài như ngón tay út, cong cong lổn nhổn, có khi lại dính chùm dính nút vì khi bột vừa ép lọt qua cái sàng xưa, mỏi tay nên xếp xoay không kịp trước khi phơi, nên bây chừ thôi thì cứ để kệ cha ông cố nội mượt kệ cho hắn rối, chứ ai hơi mô ngồi mà gỡ lỡ gãy bể vụn bể vằn biết bán cho ai? Người bán bốc từng nạm, đong từng chén, gạt từng phần hay xoay nguyên cả mủng tùy theo ý người mua. Bột cũng không trắng tinh như trứng gà bóc và thua xa màu trắng của loại bột gạo xôm xốp bỏ bao giấy dầu đục in chữ đỏ bán từng ký trong mấy tiệm chập phô của các chú ba tàu. Bột gạo La Khê sau khi mua về, phải bỏ vô trong chậu nước, khuấy tan xong gạn lọc lại cho sạch hết cát sạn rác rến dính theo trước khi dùng, thiệt là công kỹ.

 

* Chuyện Mợ Ấm Năm

Vấn đề chế biến bột gạo của làng La Khê xưa nay vẫn ở trong tình trạng khó hiểu. Người ta cho rằng dân làng La Khê giấu nghề thiệt kỹ, lại không truyền cách làm bột cho con gái. Có nhà chỉ truyền cho con trai trưởng. Ôi thôi người ta đồn đủ thứ, nghe mà phát mệt. Có dịp ra làng La Khê chơi thì chỉ thấy một số bột phơi sẵn, hoặc may lắm là thấy người ta đang quay bột. Hỏi thì người ta cũng chỉ cho cách làm, nhưng khi về làm thử, kết quả vẫn không giống như thứ bán ngoài chợ nổi danh là Bột La Khê!

Có người chủ tâm muốn học lóm cách làm bột, nhân việc đi mua phân heo bón ruộng cho gia đình, sai người gánh cả gánh tiền nặng trĩu để trước sân hầu chủ nhà thấy giàu sẽ nghĩ rằng kẻ mua phân không cần chi nghề làm bột. Trong lúc người làm ra phân, gánh xuống đò đậu dưới bờ hói, kẻ chủ tâm mới thật kiên chí, tuy đang tuổi cặp kê, tóc xõa đuôi gà, nhưng đóng bộ chủ nhân thật trưởng giả, lững thong xem xét từng hạt lúa, hạt gạo trong cối xay. Lén xem cách giã gạo, vút gạo, lại lén nếm cả nước ngâm, nhìn các cách khuấy bột, ép bột và phơi bột luôn hai ba năm liên tiếp, thậm chí có lúc giả vờ hết gạo để này mua lại thúng gạo của chủ nhà, múc luôn cả luôn cả lu nước xong đem về làm thử. kết quả: bánh vẫn bở rời không dẻo. Sự tò mò vẫn không thôi. Sau khi về nhà chồng, thấy giàu có bạc triêng bạc thúng nhưng chuyện học cách làm bột của xã La Khê vẫn không nên việc, mới nghĩ rằng muốn mượn quyền thế nhà chồng cho thỏa mãn sự tò mò. Quan thượng thấy cô dâu mới tháo vát lanh lợi, thỉnh thoảng cho gọi lên hỏi chuyện.Cô dâu thưa gởi rõ ràng, luôn tiện xin quan Thượng cho hỏi người để học cách làm bột gạo La Khê nghe cô dâu mới hỏi, quan Thượng cứ ừ hử cho qua. Không nản chí, biết chị chồng có người về làm dâu làng La Khê, vẫn gọi là Bà Cô La Khê, liền kiếm cách làm thân. Chiều ý cô vợ mới, cậu Ấm Năm đưa đi thăm chị Huấn vài ngày. Chị em tâm sự chuyện nọ chuyện kia, đến chuyện bột biếc, bà Cô La Khê thở dài thườn thượt nói với cô em dâu rằng "Nì thím Ấm Năm, vợ các quan cũng như vợ những người biết chữ không cần học chi cái nghề làm bột. Muốn bao nhiêu xe, bao nhiêu tàu, người ta sẽ chở tới tận cửa tận nhà cho tiện. Còn cách làm bột thì theo như lời người ta nói, công việc rắc rối khó nhọc nặng nề, không dám để các cô các bà bận tâm. Chính như "tơ" đây, chồng là Huấn Đạo, ngày Tế làng tế Họ, hay ngày kỵ ngày Tết, anh Huấn vẫn ngồi chiếu trên trọng vọng, muốn chi có nấy. Thế mà “tơ” về làm dâu hơn mười năm nay, nếm không biết bao nhiêu xửng bánh, nhưng nội cách làm bột thì thiệt tình chẳng biết chút chi...!"

Vốn trước tê khi chưa lấy chồng, mợ Ấm Năm vẫn thường đi mua phân heo rải ruộng, đã quen hết cả làng La Khê. Gặp ai, mợ cũng chào thưa liến thoắng nên được cảm tình. Người làng cũng chào lại o nó o tê. Bây chừ làm em dâu bà Huấn trong làng, nên thân hơn, thành mợ thành bà. Mấy nhà làm bột cũng chiều nể "cái cô mợ Ấm Năm tọc mạch" nên mới cho xay, khuấy, ép, phơi phong không thiếu thức chi. Bột ra trông thiệt ngon lành, lòng tươi vui phơi phới. Lấy cớ là để tỏ lòng quý mến biết ơn chị chồng đã dạy thêm cho cách xử sự về đạo làm dâu trong mấy ngày qua, bèn xin hấp xửng bánh đầu tay, xong mời chị chồng thời thử mấy cái, chẳng dám thưa là bột của mình làm. Bà huấn vô tình, ăn xong tấm tắc khen ngon, còn cậu Ấm Năm cũng hỏi thêm là bột lấy của nhà ai để sau này lúc cần sẽ nhắn biểu mang tới cho khỏe, đỡ phải mất công lựa chọn, mợ Ấm Năm cúi đầu dạ dạ cho qua. Khi trở về, mợ Ấm Năm không quên mua thêm thúng gạo. Tới nhà, cũng thong thả cho ngâm xay ép khuấy không khác chút chi. Mớ lá dung bẻ tim tước cọng rửa sạch lau khô sắp bày ngay ngắn. Chiếc đũa bếp quẹt bột phết gọn gàng thẳng thớm thiệt đều tay. Bánh hấp xong rồi, lấy ra khỏi xửng, vuốt xếp phẳng phiu, chờ cho nguội hẳn. Lột lá ra thấy mặt bánh cũng óng mướt ngon lành. Dùng chiếc đũa gạt ngang nâng cái bánh lên thì cả cái bánh cũng uẩn cong nhún nhẩy. Nhưng mà lạ chưa tề, sau khi cuốn tròn miếng bánh, chưa kịp xếp vô dĩa đã thoáng thấy lớp bột bánh rung rinh, rồi theo đó cứ từ từ nứt rạn. Ôi thôi rồi, trời chao biển động với nỗi giận hờn lai láng! Thiệt khó chịu rõ ràng như Công Dã Tràng khi mông mang nguyên cả một xe cát đến đổ đầy sân chận hết lối vô ra! Tức lộn ruột muốn xáng một cái cho rồi đời xong om củ tỏi! nhưng nề nếp gia phong, buồn phiền không cho lộ ra mặt. Kiêng kỵ khắt khe đến cả tiếng thờ dài! Mợ Ấm Năm vẫn âm thầm kiên nhẫn lấy mớ bột cũ còn lại từ hồi học làm thử ở nhà người ta ngoài nớ ra làm tiếp. Vệt bột giáo hai lần hai thứ nhìn thiệt kỹ cũng chẳng khác chi nhau, nhưng mấy cái bánh về sau này lột cuốn thiệt dễ dàng, xếp vô dĩa trông ngon lành hết sức, vừa gắp cho vào miệng mà hương vị đã thấm tận đến chân răng!... Sự ấm ức cũng tạm có cách trả lời: Bột ngon là do tại dùng nước của con hói La Khê để ngâm và xay đãi gạo! Nếu dùng nước múc ở chỗ khác thì sẽ hết dẻo hết ngon!

 

* Chút chuyện đời xưa

Bột gạo La Khê ngon lành lại bổ! Các ông thầy thuốc bắc cũng thường chọn để dùng làm con viên cho một số thuốc hoàn. Lớp áo bao viên thuốc không bị nứt, nên thuốc giữ được lâu, vẫn đẹp, vẫn không hư. Lại nữa, các bà, các cô mọi lần vẫn dùng phấn nụ làm bằng bột gạo để bôi mặt, thường kén chọn kỹ càng cho đúng bột La Khê. Mua thứ khác về bôi, nhiều khi sinh loam đốm vết chân ruồi, hoặc là đâm ngứa ngáy, lại phải tốn công sai người tìm con tằm thẳng cứng lâu lâu cũng thấy bày bán ngoài chợ gọi là "bạch cương tàm” về tán bột bôi thêm để gọi là làm tốt nọ kia. Mấy bà mấy cô đi chợ mua phấn nụ là chuyện thường, chứ ai lại hỏi mua con tằm khô căng thiệt thẳng nghe bắt dị, cho dù có úp nón che nghiêng vẫn không hết ngượng ngùng.

Không nghe ai nói ông thợ mã dùng bột gạo La Khê khuấy hồ để phất nộm, ngựa, hoa, quả, thụ, bằng v.v… Thời đại văn minh, người ta chê chẳng còn mặc áo quần vải quyến vuốt hồ thẳng thớm. Quần áo nhà binh ủi láng say sắc cạnh không câu nệ loại hồ, miễn sao "đứng" là được. Những loại mỹ phẩm của mấy bà dùng bôi mặt xoa tay bán đầy cửa hiệu, thơm tho đẹp đẽ và tốt gấp mấy vạn lần thứ bột gạo quê mùa. Bây chừ ai hơi mô có thì giờ để mắn mó làm công việc như thời xa xưa nhàn tản, ngồi cả ngày xay rây mớ bột gạo xong bốt đổ từng nụ phấn “don don”, hình dáng trông như mấy con men làm rượu. Đến như bánh nậm, bánh lá cũng thay hình, đổi vị, lại còn trộn thêm bột nọ bột kìa cho dẻo cho dai! Miếng chả tôm bôi phẩm tòe lòe chứa toàn mấy thứ bột khoai bột bắp bột ngọt bột tùm lum nên ngon cũng gần bằng miếng đậu hũ loan bột mì căn chiếu với thứ dầu cháy cặn nâu nâu, lại cắt ngang bổ dọc hình dài như thạch xoa rau câu trông thật hồng hoang của kỷ hà thời đại. Cũng như bánh canh Nam Phổ bây chừ chỉ còn một chút dư âm, vì sau khi múc ra, để một chút đã vữa tan lỏng la lỏng lét, có mô như lúc thời xưa, chén bánh canh để từ sáng đến trưa cho dù có nguội ngơ nguội ngắt vẫn đặc sền seat vây quanh cọng bánh canh dẻo rền, thêm vào đó mấy thứ nhụy tôm hồng hồng, điểm tí ớt vằm đỏ đỏ chen mấy lát hành tim tím xanh xanh cứ đứng lưng chừng trong chén thấy thiệt đã thèm; bột gạo La Khê thứ thiệt chứ không còn thấy bày bán ngoài chợ, có lẽ đang theo chân cái vạy tre vốn có mô từ thời công chúa Huyền Trân mở nước để người ta ăn bánh bèo, bánh nậm và mấy thứ chè đặc, đã bị bỏ quên không dùng đến hơn năm bảy chục năm nay.

 

* Chú Thích:

(1)Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn thì trong thời quân Trịnh chiếm Phú Xuân, La Khê chỉ là một phường thuộc Tổng Kim Long, huyện Kim Trà, xứ Thuận Hóa. Tổng Kim Long lúc này gồm 17 xã, 11 phường, 1 sách, 1 châu và 1 ấp.

(Phủ Kim Long nằm trong địa phận xã Kim Long, thuộc Tổng Kim Long. Phủ, xã và tổng đồng mang tên là Kim Long).