NGHỀ THỦ CÔNG AN GIANG
Nghề Đan Thúng Long Giang-An Giang
Nghề thủ công nghiệp đan thúng (xóm thúng) Long Giang là dân cư thuộc ấp Long Mỹ xã Long Giang, Huyện Chợ Mới, Tỉnh An Giang. Nằm cặp theo trục lộ giao thông liên xã, chiều dài khoảng 800 m, đông giáp sông Ông Chưởng, Tây giáp đất sản xuất nông nghiệp, nam giáp ấp Long Mỹ, Bắc giáp ấp Long Phú.
Vào năm 1930, ông Nguyễn Văn Khoa, sinh năm 1900 tục danh là ông Ba Đương, là người đầu tiên làm nghề đan đát (hiện nay ông đã chết). Sau đó ông truyền nghề lại cho các ông Trân Văn Còn, sinh năm 1901; Phạm Văn Khương, sinh năm 1905,... Vì lúc bấy giờ đất rộng người thưa, nên sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu lấy sản phẩm đan đát đổi lúa, gạo của nông dân đem về ăn là chính.
Làng nghề đan đát Long Giang, thuộc ấp Long Mỹ 2, xã Long Giang, với tổng số là 180 gia đình, mà trong đó có 113 gia đình có người làm nghề đan đát.
Trước đây, vào giai đoạn những năm 1930, làng nghề chỉ có khoảng 20 gia làm nghề đan thúng, quy mô còn nhỏ lẻ, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường.
Hiện nay, do nhu cầu sử dụng thúng giạ, thúng giê ngày càng nhiều nên làng nghề dần dần mở rộng. Sản phẩm làm ra được các thương buôn khắp nơi về mua để đem bán ở các huyện, tỉnh khác.
Nghề Mộc Gia Dụng Long Giang-An Giang
Ðó là một làng nghề ở xã Long Giang ,Chợ Mới, An Giang ra đời từ việc tận dụng gỗ vụn để đóng thành những bộ lư hương thờ phụng, lọng trang trí khung cửa, trấn phòng, bao lam... Theo thăng trầm thời gian và nhu cầu xã hội, những người thợ mộc ngày nào nay chuyển sang nghề mộc gia dụng. Vậy nhưng, nghề mộc ở xứ cù lao Ông Chưởng này vẫn trầy trật tồn tại trong rất nhiều khó khăn, trở thành một trong những làng nghề có tuổi đời lâu nhất của huyện cù lao Chợ Mới, An Giang, nằm giữa hai dòng sông Tiền – sông Hậu.
Những người bắt đầu gây dựng nghề mộc vốn ở xã Long Giang (Chợ Mới, An Giang) nhưng để tồn tại, phát triển hưng thịnh, trở thành làng nghề nổi tiếng khu vực thì Long Giang mới chính là “cái nôi” của nghề mộc. Theo đó thì nghề mộc gia dụng xã Long Giang ngày nay ra đời từ những năm 1930 – 1940 của thế kỷ trước. Ông Ba Doãn (Nguyễn Văn Doãn, ấp Long Thạnh 1, xã Long Giang), một trong những người cố cựu theo nghề mộc từ thuở bé cho biết: “Thời tôi còn nhỏ đã thấy cha tôi (ông Nguyễn Văn Quốc, một trong những người đầu tiên đem nghề mộc về nơi đây) làm nghề mộc này. Trước, ở đây chủ yếu là cưa lọng, mài những bộ lư gỗ, khắc chân đèn, hoành phi, câu đối… để thờ. Sau mới phát triển thêm nghề đóng tủ bàn ghế”. Tâm sự về quá trình phát triển của làng nghề, rồi ông Ba Doãn trầm tư: “Dân ở đất Long Giang này trước nghèo khó lắm, bà con phần lớn là thợ làm công cho các chủ trại gỗ lớn bên làng mộc, điêu khắc Chợ Thủ. Làm công ăn lương mãi cũng chẳng khá lên, cho nên vài nhân công, trong đó có ba tôi quyết định ra làm riêng, làm thêm từng phần gia công như chân đế, lọng gắn vào phần đầu tủ thờ, rồi các bộ phận khác cần cắt, đẽo, khoan từng phần… như chân tủ thờ, bộ lọng cửa phòng, khung điêu khắc tranh kiếng… cho các chủ trại bên làng Chợ Thủ
Nói đến nghề mộc chạm trổ, điêu khắc, cắt lọng, so về kỹ thuật và sự tinh tế thì sản phẩm của những người làm mộc vùng đất Long Giang không hề thua kém sản phẩm của các người làm mộc vùng Chợ Thủ. Về điều này, ông Ba Doãn cho biết: nghề mộc chạm, trổ đất cù lao Long Giang phát triển mạnh với nào tranh tứ quý (mai, lan, cúc, trúc), tứ linh (long, lân, quy, phụng), trúc mai, tùng lộc, quả lựu, đôi tượng hoặc câu đối… Ngoài ra, người thợ còn có những kỹ thuật chạm khắc gỗ khác khá đa dạng, với bốn loại chính: chạm trổ, chạm lộng, chạm nổi và chạm âm. Chạm trổ phải tạo nên hình tượng không gian ba chiều và tách rời, có thể quan sát được hình tượng từ mọi hướng, thường áp dụng đối với hình người hay thú. Chạm lộng cũng tạo nên hình tượng không gian ba chiều nhưng không tách rời nhau mà các hình tượng này dính liền nhau thành một dãy, thường áp dụng đối với các hình tứ linh hay tứ quý trên các bao lam, thành vọng. Chạm nổi tạo hình tượng nổi một phần trên nền gỗ có hoa văn đính kèm, thường áp dụng đối với các bức phù điêu. Còn chạm âm là loại chạm đơn giản, khoét lõm vào bề mặt gỗ, thường áp dụng đối với các tấm liễn (câu đối bằng chữ Nho)…
Cũng từ dạo ấy, nghề mộc xứ này bắt đầu hình thành cùng nghề mộc Chợ Thủ nức tiếng xứ miền Tây. Dần dà, từ làm công, những người thợ nơi đây bắt đầu làm ra những sản phẩm riêng biệt như bộ lư hương, chân đèn bằng gỗ giá rẻ, bàn thờ cắt lọng trang trí… Dân miền Tây ngày đó phần lớn còn nghèo, cuộc sống không mấy dư giả để có thể mua được bộ lư hương bằng đồng để đặt trên tủ thờ, nhất là khi con cái ra ở riêng, xây nhà cất cửa cần có bàn thờ tổ tiên với bộ lư hương, nên khi những chiếc lư hương, bộ chân đèn bằng gỗ giá rẻ nơi đây ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của bà con, nghề mộc phát triển ngày một hưng thịnh. Và rồi, do nhu cầu xã hội, bên cạnh những sản phẩm phục vụ thờ tự, trang trí, bà con đóng thêm tủ chén, bàn ghế, giường ngủ… bằng gỗ. Từ dạo ấy, người này chỉ người kia rồi nghề mộc phát triển nhanh thành làng mộc. Trớ trêu thay, từ khi nghề đóng mộc gia dụng từ phụ phẩm gỗ ra đời, hàng bán càng chạy thì những người vốn theo nghề mài lọng, lư hương, chân đèn, như ông Ba Doãn dần ít đi, rồi nghề cưa táng, lọng, mài chân đèn, lư hương cũng ít dần, mọi người chuyển sang làm đồ mộc gia dụng.
Khi xã hội phát triển, những bộ lư hương, chân đèn xưa kia không còn hưng thịnh. Những chiếc tủ, giường gỗ được đóng bằng gỗ vụn ngày một ít dần trong các gia đình trẻ do bị cạnh tranh khốc liệt với những sản phẩm giá rẻ hơn. Ông Ba Doãn chia sẻ: “Nhà cửa bây giờ đâu có mấy nhà còn cất kiểu nhà sàn gỗ truyền thống miệt sông nước miền Tây nên mấy cái lam cửa, lam phòng cưa lọng gần như không còn sản xuất đến cả chục năm rồi. Thêm mấy cái lư, liễn bằng gỗ cũng không được thịnh khi bộ lư đồng, câu đối, hoành phi bằng các chất liệu khác phát triển mạnh, giá rẻ, nên cả làng bây giờ sống nhờ mấy cái tủ chén, tủ đồ, giường… bằng cây tạm giá rẻ này thôi”. Có lẽ thế nên những người thợ tâm huyết với nghề mộc ngày một bỏ dần nghề khi mối tương quan giữa công việc và thu nhập không còn phù hợp. Âu đó cũng là cái khó chung của nhiều nghề truyền thống hiện nay.