CHIẾC XUỒNG BA LÁ
TRONG ĐỜI SỐNG
CON NGƯỜI VÙNG
U MINH THƯỢNG
HY VỌNG
Xuồng là người bạn đồng hành, cũng có thể nói là người bạn đời thủy chung, son sắc gắn bó với con người nơi đây suốt lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất này.
Chiếc xuồng có mặt ở khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng ở vùng thuộc rừng U Minh xưa và U Minh Thượng của Kiên Giang ngày nay thì nó là phương tiện chiếm đại đa số.
Xưa kia, với một nơi địa hình bị kênh rạch chằng chịt chia cắt, rừng rú um tùm, giao thông đường bộ kém phát triển như vùng Rừng U Minh Thượng thì chiếc xuồng là loại phương tiện đắc dụng và phù hợp nhất. Nó thể được sử dụng để đi lại dễ dàng cà trên sông lớn lẫn kênh nhỏ. Nhưng chiếc xuồng ba lá càng tỏ ra có ưu điểm cao hơn các loại phương tiện giao thông thuỷ khác khi cần thiết phải di chuyển trên mương, rạch nhỏ. Ở vùng U Minh Thượng, người ta chọn xuồng làm phương tiện giao thông chủ yếu không hẳn do điểu kiện kinh tế, mà trước hết là vì tính linh hoạt, hữu hiệu của nó. Tính linh hoạt của xuồng ba lá đặc biệt có ý nghĩa khi được sử dụng ở trên ruộng hoặc chân rừng ngập nước, là những nơi mà hầu như các loại phương tiện khác phải bó tay.
Nhờ nhỏ, gọn, nhẹ nên xuồng có thể dễ dàng luồn lách trên những đoạn đường chật hẹp. Đồng thời, do diện tích mặt tiếp xúc với nước nhỏ làm hạn chế tối đa sức cản của nước nên nó có khả năng di chuyển nhanh ngay cả ở nơi nước nông. Người vùng U Minh Thượng khai thác triệt để những tính năng ưu việt của xuồng so với phương tiện khác để tạo riêng cho mình một lọai tiện nghi, hay nói chínhxác hơn là một lọai công cụ thích hợp cả cho sinh hoạt và sản xuất. Người ta dùng xuồng để đi lại cũng như trong lao động sản xuất. Chiếc xuồng dùng để đi thăm câu, giăng lưới, cũng được dùng để vận chuyển sản vật khai thác được ở rừng, chuyên chở thành quả lao động từ đồng ruộng về, dùng xuồng để đi buôn bán. Độc đáo hơn, xuồng đôi khi còn được sử dụng như một ngôi nhà lênh đênh trên nước, một mái ấm tâm linh chở che con người trước mưa nắng vô thường của đất trời Tây Nam bộ. Còn trong hai cuộc kháng chiến chống ngọai xâm vừa qua, chiếc xuồng ba lá trở thành thứ vũ khí lợi hại của quân và dân vùng căn cứ địa cách mạng U Minh Thượng.
Từ khởi thủy là chiếc xuồng độc mộc của tổ tiên đến chiếc xuồng làm bằng vật liệu mới composite đương đại, chiếc xuồng ở vùng U Minh Thượng đã qua một quá trình hơn 3 thế kỹ phát triển không ngừng. Suốt dòng lịch sử này, chiếc xuồng ba lá là cả một sự phát hiện đầy tính sáng tạo của con người vùng U Minh Thượng. Xuồng ba lá là tên gọi dựa trên cấu tạo của loại xuồng được ghép bởi ba tấm ván. Gồm có hai tấm ván be và một tấm ván đáy.
Để xuồng được cứng chắc, người ta dùng những chiếc “cong” tạo thành bộ khung mô phỏng bộ xương sườn của cá. Bộ cong này có nhiệm vụ cố định thân xuồng, chống đỡ sức ép của nước từ bên ngoài vào, đồng thời giữ chặt ván xuồng, giúp xuồng không bị biến dạng.
Dưới các thanh cong, người thợ đóng xuồng nghĩ ra cách khoét lõm hình bán nguyệt gọi là những "lổ lù". Chúng có nhiệm vụ thông nước giữa các khoang xuồng với nhau để giúp cho việc tát nước dễ dàng, không mất công tát theo từng khoang. Mũi và lái xuồng ba lá có hình dạng không khác gì nhau, khác chăng chỉ là ở kích cở bộ ván sạp mà thôi.
Nhờ mũi và lái xuồng ba lá giống nhau mà tính linh hoạt trong việc điểu khiển xuồng càng cao. Nếu như ở các loại ghe, thuyển khác cần phải quay mũi khi cần trở lại thì với một chiếc xuồng ba lá, người ta chỉ cần hoán đổi vị trị ngồi bơi, mũi rẽ thành lái và ngược lại. Đặc điểm này cũng chính là một trong những ưu điểm của xuồng ba lá, nó đặc biệt có ý nghĩa khi sử dụng xuồng ở nơi đường đi quá chật hẹp.
Trọng tải của xuồng ba lá được tính bằng kích cở của bộ ván be. Phổ biến ở vùng U Minh Thượng là xuồng các cở từ khoảng be sáu đến be mười. Xuồng có số đo be càng thấp thì càng nhỏ, càng nhẹ, khả năng di chuyển cao, nhưng sức chở thấp, thích hợp làm phương tiện đi lại. Xuồng lớn có thể chở nhiều, nhưng di chuyển chậm nên thường được dùng để vận chuyển hàng hóa. Cùng với quá trình hoàn thiện chiếc xuồng ba lá là quá trình sáng tạo ra các công cụ và phương pháp điều khiển nó như: cây sào nạng dùng để chống, dầm dùng để bơi và cuối cùng là cây chèo. Mỗi thứ có cách sử dụng riêng. Nhưng dù cho điều khiển xuồng bằng bất cứ cách nào, giữ thăng bằng cho xuồng khỏi tròng trành hoặc lật úp mới là điều quan trọng nhất. Để đạt được sự thăng bằng cần thiết là cả một nghệ thuật và nghệ thuật đó chỉ được thành hình qua một quá trình rèn luyện. Khi động cơ nổ thâm nhập vào vùng U Minh Thượng, nơi đây có thêm kiểu xuồng gắn máy. Hiện nay, phần đông nhân dân trong vùng, do đời sống ngày càng được cải thiện nên đã sắm được máy nổ thay cho dầm, chèo. Tuy nhiên, dù cho đã có máy móc, nhưng bất cứ chiếc xuồng máy nào cũng đều mang theo dầm, chèo để phòng khi máy móc trục trặc mà dùng.
Xuồng ba lá là sự lựa chọn tuyện vời của cả dân vùng U Minh Thượng để khắc phục hoàn cảnh, đối phó với môi trường tự nhiên. Sự gắn bó của nó đối với con người nơi đây được ví như một bộ phận không thể tách rời của cơ thể. Không có xuồng được người dân ở đây ví như là bị “cụt chân”.
Quá trình hoàn thiện chiếc xuồng ba lá, những công cụ đi kèm, cách thức điều khiển và những ứng dụng thực tiễn của nó đã tạo nên một sắc thái riêng cho diện mạo văn hóa của tiểu vùng U Minh Thượng. Đó là một nền văn hóa sông nước thật sự. Hiện nay những người khách du lịch đến với U Minh Thượng vẫn rất thích thuê xuồng ba lá để tự mình bơi trên những con kênh xuyên rừng để câu cá giải trí.