TẢN MẠN VỀ QUÊ HƯƠNG CẦN THƠ
Trong hoàn cảnh tha hương, bất cứ vào một dịp hàn huyên nào, khi biết được một người xa lạ đối diện mình là người đồng hương, tự nhiên một tình cảm thân thiết nảy sinh dành trọn cho người đồng hương đó. Hoặc giả thỉnh thoảng nhìn thấy một tấm hình giản đơn với cảnh sông nước và chiếc cầu tre ba nhịp bắt ngang sông, hay cảnh một thửa ruộng xanh rì với hàng cau thấp thoáng một mái tranh cũng đủ gây nên một cảm xúc lâng lâng gợi nhớ về quê hương. Do đâu mà niềm khát khao về quê hương xâm chiếm lòng mình như vậy? Phải chăng đó là tình tự quê hương đã một thời ấp ủ tâm tư tình cảm mình.
Tôi còn nhớ một người bạn đồng hương Cần Thơ đã nói với tôi là quê hương Cần Thơ mình không có những kỳ tích lịch sử như Hà Nội hay cố đô Huế…, không có những cảnh núi non hùng vĩ như SaPa, Lào Kay với những tầng ruộng ngập chìm trong làn sương buổi sớm, những bản làng mơ màng giữa làn mây trắng lưng đèo. Cần Thơ cũng không có những bãi biển thơ mộng hay những đồi cát trắng trùng trùng điệp điệp nổi tiếng của vùng đất Bình Thuận miền Trung. Thế nhưng Cần Thơ luôn là nỗi da diết nhớ thương kỳ lạ. Cảm nhận của người bạn tôi cũng chính là của tôi cũng như của hầu hết người dân Cần Thơ.
Một kỳ tích lịch sử tráng lệ hay một thắng cảnh danh lam nức tiếng bốn phương thật ra chỉ dành cho khách xa muôn dậm, chúng không hẳn là một yếu tố chánh để gợi nhớ gợi thương cho người dân vùng đó mà chính những hình ảnh mộc mạc, bình dị trong đời sống thường nhật mới chính là môi trường sinh động nuôi dưởng tình tự con người. Trong cái phong quang bình dị, mộc mạc đó, tự nó đã luân lưu một dòng chảy sống động của tình quê: những tia nắng ban mai nơi đầu sông, một cơn gió mát buổi trưa hè, một ngọn khói lam chiều tỏa lên từ mái nhà tranh, tiếng líu lo của bầy chim trao trảo hay chim se sẻ trên cây trứng cá trước nhà, tiếng mưa rơi đều trên mái lá, điệu ru con của người mẹ hay tiếng ê a học bài của trẻ con vẵng lên trong thôn xóm, giọng rao quà rong vang vang cuối ngõ, tiếng nỉ non của côn trùng như một điệp khúc đồng quê trong đêm tối dưới bờ mương, một làn gió thoảng quyện hương thơm ngọt ngào của nụ lúa trổ đồng đồng …v.v…
Những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, mùi vị đó đâu có lộng lẩy, kiêu sa, khó tìm mà nó dịu dàng, êm ả và hiện hữu cùng khắp, từ sân nhà, góc phố đến đầu sông cuối hẻm. Chính nó mới là nụ non mầm sống của tâm hồn làm nảy sinh tình tự quê hương.
Xa quê hương đã hơn hai mươi lăm năm, càng lúc tôi càng thấy thắm thía hai câu thơ của Chế Lam Viên:
Khi ta ở, đất chỉ là đất ở
Khi ta đi, đất bổng hóa linh hồn.
Trong hoàn cảnh xa nhà ai mà không nhớ quê xưa, đất Cần Thơ bây giờ có thể nói là một phần linh hồn của tôi đó. Mỗi khi nhắc về quê hương Cần Thơ, tôi mơ nhớ về bến Ninh Kiều, về vườn Thầy Cầu, Đàn Tiên, về Bình Thủy, Cái Chanh, về cồn nổi Sáu Thanh, về Cái Răng, Mỹ Khánh, Phong Điền…v.v…không phải vì là những nơi lý tưởng hò hẹn gió trăng của thời mới lớn hay những nơi vui thú với bạn bè ngày xưa của tuổi học trò mà vì tôi cảm nhận được cái dịu vợi của ngọn gió mát từ vàm sông thổi về, len lách qua bụi cây ghế đá công viên làm tôi yêu đời, yêu người và yêu cảnh vật chung quanh. Tôi say sưa mùi hương thoang thoảng hoa cau, hoa bưởi, hoa ô môi…quyện với mùi bụi đường thân quen của vùng đất Rạch Ngỗng hữu tình. Tôi thích ngắm nhìn những lượn sóng lúa non vờn theo gió đồng nội trên những thửa ruộng ven đường ngoại ô Bình Thủy. Tôi thích nghe tiếng mưa rơi trên sông trong những lần vượt sông tấm cồn hay ngồi câu cá dưới chân cầu Cái Khế. Tôi yêu thương miền đất Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền vì tôi yêu lời ru của mẹ ru tôi vào giấc ngủ trưa hè.
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh có thương em cho bạc cho tiền, đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê.
hoặc là:
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Anh có thương em, anh sắm một con đò, để em qua lại mua cò gửi thư.
Tôi có nhiều người quen vì nhớ quê hương mà về Việt Nam. Ngoài việc thăm viếng cha mẹ, gia đình và bạn bè cố cựu, không biết họ có tìm lại được chút gì tình tự quê hương hay không? Có thổn thức khi bước lại trên đường về Rạch Ngỗng? Có thoải mái ngồi mơ màng nơi bến vắng, nhìn ngắm dòng sông xưa với hàng dừa rủ bóng ven bờ hay hàng phượng đỏ vươn mình dưới nắng hạ? Có nghẹn ngào khi thấy người thân, bè bạn và người dân Cần Thơ khắc khổ kiếm ăn từng ngày, bửa đói bửa no? Có xót xa khi nhìn thấy cũng tia nắng ban mai mà ngày xưa đã lung linh chiếu rọi bước chân tung tăng của các cô nữ sinh ngây thơ cấp sách đến trường, mà nay thì họ bước những bước chân lạc loài để giả từ mẹ cha đến nơi trầm luân, làm dâu xứ lạ hay làm nô lệ tình dục như: Campuchia, Đại Hàn, Mã Lai, Đài Loan?
Có người đồng môn trường Phan đã một lần về Việt Nam, buồn bả nói với tôi là Cần Thơ cũng như nhiều nơi anh đi qua, giờ đây cuộc sống đói nghèo đã làm cho phong hóa suy đồi và xã hội đảo lộn. Càng lưu luyến nhớ quê nhiều càng thất vọng nhiều. Mặc dù sông nước vẫn còn đó, gió trăng mây trời vẫn còn đó, mưa vẫn rơi và nắng mai vẫn đầy nhưng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Tất cả những gì đẹp đẻ ngày xưa trên quê hương thật sự đã mất. Chúng ta là những người tị nạn Việt Nam, đã một lần đánh mất thì nhất quyết phải một lần đòi lại.
Qua lời tâm tình của anh, tôi chợt nhớ tới bài ca Trả Ta Sông Núi" của Nguyệt Ánh và xin trích lại một đoạn:
. . . . . . . . . . . . . . . .
Trả ta mây nước, giòng sông cũ với con đò xưa.
Trả ta đất quê đã bao đời nắng sớm chiều mưa.
Trả ta mái lá yên vui, bát cơm tự do cho người,
Vòng khoai nương sắn tưới theo ngày mới.
Trả ta câu hát, từng câu hát ca dao Việt Nam.
Trả ta tiếng ru giữa trưa hè ru bé ngủ ngoan.
Trả ta tiếng gió êm êm, tiếng mưa nhẹ rơi bên thềm.
Trả ta khúc hát trên môi mẹ hiền.
. . . . . . . . . . . . . . . .
Muốn đòi lại những điều trên, chúng ta đừng đánh mất niềm tin.
Trương Thanh Việt