Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

LƯƠNG BỔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG

Kinh Tế Gia: Nguyễn Xuân Nghĩa

 

Do trận thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, một số công ty ngoại quốc đã chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam vì tưởng là nhờ lương công nhân rẻ hơn nên họ vẫn có thể kiếm lời. Cuối cùng thì giới đầu tư quốc tế thất vọng vì thực tế Việt Nam không được như vậy. Mục Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu quy luật sâu xa giữa lực lượng lao động, lương bổng và đà tăng trưởng của các nền kinh tế, qua cuộc trao đổi với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

* Lương rẻ -Năng suất thấp

Hỏi: Xin kính chào kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa. Từ sáu năm trước rồi, trên diễn đàn này ông trình bày là mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc hết thời tăng trưởng hấp dẫn như một “công xưởng toàn cầu” với nhân công nhiều và lương bổng rẻ nên giới đầu tư quốc tế phải tìm các thị trường thay thế, trong đó có Việt Nam. Nhưng ông cũng sớm cảnh báo rằng lương bổng thấp phải được đối chiếu với năng suất và đòi hỏi Việt Nam nhiều nỗ lực cải cách sâu rộng. Bây giờ, khi trận thương chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc bùng nổ từ một năm nay, người ta chọn Việt Nam như giải pháp thay thế và nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam nhờ lương bổng thấp hơn tại Trung Quốc. Nhưng họ lại thất vọng vì yếu tố năng suất, điển hình là một bài báo của tờ South China Morning Post hôm 12 Tháng Bảy vừa qua. Ông giải thích thế nào về hiện tượng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Người ta hiểu lầm quá lâu về cái gọi là phép lạ hay sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc, tôi xin miễn nhắc lại dù đã đi ngược trào lưu chung mà sớm cảnh báo hiểu lầm đó cho Việt Nam. Kỳ này, chúng ta phải nói tới một ngộ nhận khác và mong rằng Việt Nam cũng sớm hiểu ra.

Trước hết là khái niệm hay phạm trù “lợi thế so sánh” trong luồng giao dịch thương mại với nhau, theo đó, các cơ sở kinh tế từ doanh nghiệp tới quốc gia đều có lợi khi chuyên môn hóa việc sản xuất các mặt hàng có phí tổn thấp nhất để xuất cảng. Ngược lại, họ cũng có lợi khi nhập những mặt hàng có thể sản xuất với chi phí cao.

Từ cuộc Cách mạng Công nghiệp, vào khỏang 1760 trở về sau, trong luồng trao đổi quốc tế thể nào cũng có quốc gia chiếm lợi thế tương đối dựa trên nhân công nhiều và lương bổng rẻ của mình. Nếu biết khai thác lợi thế đó thì cả nền kinh tế sẽ thay đổi lớn và các nước đều trở nên giàu có hơn.  Trong Thế kỷ 19, nước Đức nghèo nàn chẳng thể nào bằng nước Anh hoặc nước Nhật chẳng thể bằng Nga, nhưng tình hình đã thay đổi và nhiều quốc gia còn muốn tạo ra sự thay đổi ấy.

Hỏi: Thưa ông, họ tạo ra sự thay đổi như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa:

Nhiều quốc gia hiểu quy luật vận hành của kinh tế xã hội thì tìm sự thay đổi tiệm tiến, là đi từng bước và mất nhiều thập niên. Có quốc gia nóng vội thì muốn thay đổi bằng cách mạng, sau cùng thì bị khủng hoảng làm kinh tế kiệt quệ và người dân lầm than, là trường hợp của các nước cộng sản.

Ngoài thời kỳ chiến tranh thì luồng giao dịch quốc tế được phát triển nhờ lợi thế so sánh và ảnh hưởng mạnh đến trật tự thế giới. Hai quốc gia bị tàn phá là Đức và Nhật đã vươn khỏi tro than khi phát triển lực lượng lao động có tay nghề và lương thấp để tái thiết xứ sở để trở thành các quốc gia xuất cảng mạnh nhất. Gần 70 năm trước, sản phẩm của Nhật còn là loại rẻ và tồi, nhưng mấy chục năm sau, Nhật Bản hết bán hàng nhờ nhân công rẻ và lương bổng thấp mà nhờ trình độ công nghệ hay thuật lý hiện đại. Sau ba chục năm cách mạng hoang tưởng của Mao Trạch Đông, Trung Quốc cũng học Nhật Bản thời hậu chiến mà khai thác lợi thế dân số đông và nhân công rẻ trong mấy chục năm. Ngày nay, họ cũng sẽ phải thay đổi vì lợi thế về lương bổng đó không còn nữa.

Hỏi: Vậy phải chăng yêu cầu thay đổi ấy đang là những bài toán mới của Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa:

Chiến tranh và cách mạng là những bài học đắt giá. Bước ra khỏi trạng thái tâm lý hắc ám ấy thì các nước như Đức, Nhật và Trung Quốc, chỉ có thể bán cho khách hàng sự bần cùng của mình, thể hiện qua đồng lương rẻ trong sản xuất. Sự khác biệt then chốt là Đức và Nhật đã phát triển kinh tế tự do với chế độ dân chủ, Trung Quốc duy trì chế độ độc tài và còn trở lại ách toàn trị.

Điều này khiến cho nhân công bị thiệt thòi, doanh nghiệp đòi hỏi kỷ luật và hy sinh, giới đầu tư nước ngoài dồn tiền vào khai thác lợi thế tương đối ấy. Nhưng chế độ dân chủ không chấp nhận tệ nạn đó nên chiến lược cùng chính sách kinh tế xã hội phải thay đổi tại Đức và Nhật. Trung Quốc thì chưa, tuy vậy cuộc sống thay đổi sau 30 năm tăng trưởng mạnh, y như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan trước đó, khiến người dân Trung Quốc có nhiều đòi hỏi hơn xưa, hết chấp nhận số phận con sâu cái kiến như trước. Lãnh đạo xứ này cũng biết trạng thái căng thẳng đó và học theo Nhật Bản, Nam Hàn mà cố tiến lên trình độ sản xuất cao hơn thay vì chỉ tìm cách bán sự bần cùng cho xứ khác.

Nhìn trong viễn ảnh dài thì sản xuất các mặt hàng hạ đẳng nhờ lương bổng thấp thì chẳng có lời bằng những sản phẩm hay dịch vụ tinh tế và đắt tiền hơn, nhưng chìm sâu bên dưới sự thay đổi ấy là lương bổng hết rẻ khi đà tăng trưởng hết còn là 10% một năm. Mọi quốc gia hay thành phần dân chúng đều trải qua tiến trình ấy, như lớp di dân đầu tiên vào Mỹ, từ thuở xưa cho tới ngày nay, cũng chấp nhận việc làm cực nhọc với đồng lương thấp, nhưng thế hệ sau thì đã có khát vọng cao hơn. Trung Quốc bước tới trình độ ấy mà chưa thấy lối ra và nội bộ bị thách đố.

* Bán sự bần cùng

Hỏi: Bây giờ nói đến chuyện Việt Nam, thưa ông, phải chăng xứ này vẫn còn ở trong trạng thái mà ông gọi là bán sự bần cùng cho khách hàng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa:

Có lẽ còn thê thảm hơn vì khách hàng và nhà đầu tư cũng không hài lòng! Chúng ta hãy trở về cái trật tự cũ căn cứ trên lợi thế so sánh là nhân công rẻ của Trung Quốc.

Từ nhiều năm trước, lãnh đạo Bắc Kinh biết là phải thay đổi, giới đầu tư nội địa và quốc tế cũng hiểu vậy, chứ chẳng đợi đến trận thương chiến. Khi ấy, nhiều quốc gia có thể trám vào khoảng trống là có lương bổng thấp do Trung Quốc để lại nếu hội đủ các điều kiện về hạ tầng cơ sở. Đầu tiên là hạ tầng vật chất như cầu đường cho việc tiếp vận, thứ hai là hạ tầng vô hình là hệ thống luật lệ công khai minh bạch, thứ ba là nhân công phải có tay nghề hay năng suất, nghĩa là hệ thống giáo dục phải đào tạo ra nguồn nhân lực thích hợp với yêu cầu. Khi chuẩn bị những điều kiện nói trên – với tinh thần cấp bách mà trường kỳ - các quốc gia muốn thành công còn phải ý thức được vài sự thật, rằng giới đầu tư quốc tế sẽ chẳng là các tập đoàn lớn mà chỉ là doanh nghiệp loại vừa và nhỏ; họ sẽ chú trọng tới việc sản xuất áo quần, giày dép là hai ngành có sự cạnh tranh gay gắt nhất, rồi mới đến các sản phẩm điện tử được nhân công bản địa ráp chế. Cùng cả chục xứ khác, như Mexico, Bangladesh, In-donesia hay Malaysia, Việt Nam có thể được chọn vì nằm vào vị trí địa dư thuận lợi của luồng giao dịch tại Đông Nam Á.

Hỏi: Thế thì tại sao nhiều nhà đầu tư Trung Quốc và cả Đài Loan lại thất vọng sau có một năm thử nghiệm tại Việt Nam?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ rằng đấy chỉ là giới đầu tư cò con với các dự án chừng một triệu đô la để tuyển dụng một hai trăm nhân viên có lợi thế là lĩnh lương rẻ hơn nhân công Trung Quốc, để sản xuất giày dép, áo quần bàn ghế hay vật liệu điện tử nhằm bán qua các thị trường Âu-Mỹ. Họ hơi phiến diện vì chẳng nghiên cứu kỹ để thấy ra nhiều nhược điểm của Việt Nam.

Nhưng có lẽ lãnh đạo Việt Nam cũng chẳng thấy nhược điểm này. Thứ nhất, chuyện lương rẻ chỉ là ảo nếu không đối chiếu với năng suất thấp, tay ngề kém cỏi. Thứ hai, người ta không chiết tính “ẩn phí” là các loại phí tổn ngầm vì đất đai thì đắt mà hạ tầng vật chất và luật lệ lại thô thiển, thủ tục nhiêu khê rắc rối. Sau cùng, còn một sự thật khác là về cơ bản Việt Nam chẳng khác gì Trung Quốc trong cách tiếp cận với thị trường. Ngày nào lãnh đạo Việt Nam hết bị mê hoặc với mô thức Bắc Kinh thì ngày ấy Việt Nam sẽ cải cách thật.

Hỏi: Xin đề nghị ông nêu ra một số kết luận về tình trạng này...

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho rằng từ Thế kỷ 18, cả thế giới đã tiếp cận cùng một lúc với hai hiện tượng là 1/ luồng giao dịch buôn bán rộng rãi hơn giữa các nước và 2/ là tiến trình công nghiệp hóa. Hai hiện tượng đó đòi hỏi quyền tự do quyết định trước đây không hề có, hoặc không được chấp nhận và vài chục năm một lần lại tạo ra vấn đề mới. Thường xuyên đối phó với các bài toán mới là thực tế của sự tiến bộ mà người ta không thể giải quyết bằng khẩu hiệu, là sản phẩm bị lạm phát trong các nước thiếu tự do.

Kết luận thứ hai là các nước nghèo phải chịu lương bổng thấp để tăng trưởng kinh tế hầu phát triển quốc gia. Khi quốc gia đã phát triển thì yếu tố lương thấp hết là lợi thế và xứ nào cũng cố tiến lên trình độ sản xuất cao hơn, có lương bổng tương xứng với công sức và giá trị lao động. Nếu nhà nước chỉ nhìn vào lợi thế lương rẻ để cạnh tranh thì sẽ gây ra hiện tượng bóc lột và tăng trưởng không dẫn tới phát triển. Trung Quốc muốn đi tắt nên lâm vào thế kẹt là lương hết rẻ mà tăng trưởng lại giảm và phát triển chỉ là giấc mơ. Việt Nam nên nhìn lại mà sớm từ bỏ mô hình của xứ láng giềng này và cố gắng phát huy ưu thế của tự do như các nước tiên tiến khác.