Menu



Đài Tưởng Niệm

Thuyền Nhân

Việt Nam

Tiếp Theo...

* CẦU NGUYỆN VÀ TƯỞNG NIỆM NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM 2016 TẠI NAM CALI


* 40 NĂM QUỐC HẬN LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN, BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* 30 THÁNG TƯ, TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* BI SỬ THUYỀN NHÂN (Nguyễn Quốc Cường)


* BIỂN ĐÔNG LỤC BÌNH TRÔI


* CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


* CÁNH BÈO BIỂN CẢ (Văn Qui)


* CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ CON TÀU MANG SỐ MT065


* CẦU SIÊU BẠT ĐỘ TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM WESTMINSTER


* CHUYỆN KỂ HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG (Nhiều Tác Giả)


* CHỨNG TÍCH ĐỂ ĐỜI: ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Vi Anh)


* CHUYẾN VƯỢT BIÊN ĐẪM MÁU (Mai Phúc)


* CHUYẾN VƯỢT BIỂN HÃI HÙNG


* CON ĐƯỜNG TÌM TỰ DO (Trần Văn Khanh)


* CÒN NHỚ HAY QUÊN (Nguyễn Tam Giang)


* DẠ TIỆC VĂN NGHỆ "LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG" THÀNH CÔNG NGOÀI DỰ KIẾN CỦA BAN TỔ CHỨC


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN (Việt Hải)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TẠI QUẬN CAM (Vi Anh)


* ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM: BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG CỦA NIỀM KHÁT VỌNG TỰ DO VÀ NHÂN QUYỀN


* ĐÊM DÀI VÔ TẬN (Lê Thị Bạch Loan)


* ĐI VỀ ĐÂU (Hoàng Thị Kim Chi)


* GALANG: BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM BỊ PHÁ BỎ


* GALANG MỘT THỜI - MỘT ĐỜI (Nguyễn Mạnh Trinh)


* GIÁNG NGỌC PHỎNG VẤN NHÀ THƠ THÁI TÚ HẠP VÀ NỮ SĨ ÁI CẦM VỀ LỄ KHÁNH THÀNH ĐTNTNVN


* GIỌT NƯỚC MẮT CHO NGƯỜI TÌM TỰ DO (Lê Đinh Hùng)


* HẢI ĐẢO BUỒN LÂU BI ĐÁT


*"HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG: TỰ DO, MỘT NHU CẦU THIẾT YẾU, ĐÁNG ĐỂ TA ĐI TÌM"


*HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM TỰ DO  


* HÀNH TRÌNH TÌM CON NƠI BIỂN ĐÔNG


* HÌNH ẢNH MỚI NHẤT CHUẨN BỊ KHÁNH THÀNH VÀO THÁNG 04-2009


* HÒN ĐẢO BỊ LÃNG QUÊN (Meng Yew Choong)


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ VINH DANH ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ WESTMINSTER THÔNG QUA NGHỊ QUYẾT “NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM”


* KHÁNH THÀNH ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI NAM CALI


* KHẮC TÊN TRÊN BIA TƯỞNG NIỆM (Việt Hải)


* LÀN SÓNG THUYỀN NHÂN MỚI


* LỄ ĐỘNG THỔ KHỞI CÔNG XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM


* LỄ KHÁNH THÀNH TRỌNG THỂ ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VIỆT NAM TẠI QUẬN CAM


* LỄ TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN TỔ CHỨC TRANG NGHIÊM TẠI NGHĨA TRANG WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* LÒNG NHÂN ÁI (Tâm Hồng)


* LỜI NGUYỆN GIỮA BIỂN ĐÔNG (Thơ Thái Tú Hạp)


* MEMORIAL TO BOAT PEOPLE WHO DIED TO BE DEDICATED SATURDAY


* MỘT CÁI GIÁ CỦA TỰ DO (Trần Văn Hương)


* MƠ ƯỚC "MỘT NGÀY TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN" ĐÃ TRỞ THÀNH SỰ THẬT


* NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM NĂM THỨ 5


* "NGÀY THUYỀN NHÂN VIỆT NAM" TỔ CHỨC TRỌNG THỂ TẠI WESTMINSTER


* NGƯỜI PHỤ NỮ SỐNG SÓT SAU CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG


* NHỮNG CHUYỆN HÃI HÙNG CỦA THUYỀN NHÂN (Biệt Hải)


* NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT ĐỀU CÓ THẬT (Ngô Dân Dụng)


* NHỮNG THÁNG NGÀY YÊU DẤU NƠI HOANG ĐẢO (Tuấn Huy)


* NỖI BẤT HẠNH ĐỜI TÔI (Thùy Yên) 


* NỖI KHỔ CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Thy Vũ Thảo Uyên)


* NƯỚC MẮT CỦA MỘT THUYỀN NHÂN (Nguyễn Mỹ Linh)


* SAIGON TIMES PHỎNG VẤN MỤC SƯ HÀ JIMMY CILLPAM 4 NĂM CÓ MẶT TRÊN TÀU AKUNA CỨU HƠN 5000 NGƯỜI VIỆT NAM VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO TRÊN BIỂN ĐÔNG


* TÀU SẮT BẾN TRE (Tú Minh)


* THẢM KỊCH BIỂN ĐÔNG (Vũ Duy Thái)


* THẢM SÁT TRÊN ĐẢO TRƯỜNG SA


* THỊ XÃ WESTMINSTER VINH DANH TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN


* THÔNG BÁO CỦA ỦY BAN THỰC HIỆN ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN VN


* THƠ LÀM KHI ĐỌC TIN THUYỀN NHÂN (Viên Linh)


* THUYỀN NHÂN: ẤN TÍCH LỊCH SỬ


* THUYỀN NHÂN VÀ BIỂN ĐỘNG


* THUYỀN NHÂN VÀ MỘT VÀI HÌNH ẢNH CỨU NGƯỜI VƯỢT BIỂN


* THUYỀN NHÂN VIỆT NAM VƯỢT BIÊN, TỬ NẠN, ĐẾN BỜ TỰ DO ĐÃ GIÚP NHÂN LOẠI NHÌN RÕ ĐƯỢC CHÂN TƯỚNG CỦA CỘNG SẢN (Lý Đại Nguyên)


* TRÔI GIẠT VỀ ĐÂU (Nguyễn Hoàng Hôn)


* TRỞ VỀ ĐẢO XƯA... (Nguyễn Công Chính)


* TỪ TẤM BIA TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở GALANG NHÌN RA CON ĐƯỜNG HÒA GIẢI


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN VIỆT NAM ĐÃ CHÍNH THỨC ĐƯA VÀO WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỢNG ĐÀI THUYỀN NHÂN ĐÃ ĐƯỢC ĐẶT VÀO VỊ TRÍ AN VỊ TRONG KHUÔN VIÊN WESTMINSTER MEMORIAL PARK


* TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30-4-2012

* VĂN TẾ THUYỀN BỘ NHÂN ĐÃ BỎ MÌNH TRÊN ĐƯỜNG TÌM TỰ DO


* VƯỢT BIỂN (Thanh Thanh)


* VƯỢT BIỂN MỘT MÌNH (Nguyễn Trần Diệu Hương)


* XIN VỀ ĐÂY CHỨNG GIÁM, AN GIẤC NGÀN THU


* XÓA DẤU VẾT TỘI ÁC (Phạm Phú Minh)


Saigon Times USA

 

 

Sự thay đổi lề lối làm việc trong tòa soạn vài ba năm trở lại đây tạo cho nhân viên thoải mái nghỉ ngơi trong ba ngày Xuân Tết. Đối với tôi, thời gian ngắn ngủi đó quả thật là hạnh phúc. Những ngày đầu năm mới không nhằm vào ngày cuối tuần nên những đứa con đều phải đến trường, hiền nội lại đi thăm bà con. Còn lại một mình trong căn nhà vắng vẻ, tôi mới cảm nhận cái thú vị nhớ nhung đến những mùa Xuân với bao kỷ niệm đằm thắm hạnh phúc nơi quê nhà.

Có nhà nghệ sĩ nào đó đã nói: Ông không sợ cô độc mà ông chỉ sợ cô đơn. Quả thật như thế, suốt đời ông không có một người nữ ”tình nguyện nâng khăn sửa túi”, mà chỉ thấy ông trà rượu khề khà bên cạnh những tài hoa nam tử.

Từ khi bước vào trung học, tôi có cái thú mê sách, bao nhiêu tiền ăn quà sáng đều dành dụm để mua sách. Nỗi đau nhất của tôi là sau những ngày tháng 4, người ta phá tan tủ sách của tôi và khiêng đi đốt... tôi còn nghe tiếng than khóc của bao nhiêu thi hào thi bá thi tiên trong ngọn lửa phần thư...

Sau bao nhiêu thăng trầm khổ nạn trong trại tù, trên biển Đông... chúng tôi may mắn đến định cư ở miền đất tự do nầy. Trong căn nhà khiêm nhượng, tủ sách hình thành như một người bạn tri kỷ thủy chung.

Mùa Xuân đã trở về theo chu kỳ của tạo hóa, đời sống mới đã thực sự tái sinh. Những chồi non lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời rực rỡ, thiên nhiên như vừa tắm gội thật tinh khiết và trẻ trung như niềm hy vọng tỏa ngát trong trái tim nhân loại. Bầy chim cũng đã trở về hót líu lo trên cành đào chớm nụ hoa trước hiên nhà.

Cho dù ở một mình nhưng tôi không cảm thấy cô đơn. Hàng ngàn tiền bối uyên bác, những hiền nhân triết gia lỗi lạc, những thi nhân văn sĩ lừng lẫy Đông Tây.. đang ở bên cạnh tôi mỉm cười thân ái chờ tôi đón lấy từng dòng tâm huyết tỏ bày, chia xẻ mộng lớn mộng con vá trời lấp biển... những anh tài mang sứ mạng thời đại cứu dân cứu nước. Khởi từ ý niệm kỳ diệu của thiền sư Vạn Hạnh sau khi ”... đem gậy nhà Phật để bảo vệ lãnh thổ sơn hà” (Trụ tích trấn vương kỳ...) hoàn thành sự nghiệp chống ngoại xâm xây dựng đất nước thanh bình thịnh trị. Thiền sư lại khoác áo cà sa thong dong cùng mây trời trên đỉnh non cao. Và để lại cho đời bốn câu thơ tuyệt tác:

 

THI ĐỆ TỬ

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

 

DẶN BẢO ĐỆ TỬ

Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi thu não nùng

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông

(Ngô Tất Tố dịch)

 

Đến cụ Tiên Điền Nguyễn Du, thì Phật Giáo đã thấm sâu trong nền tảng văn hóa dân tộc. Thi Hào Nguyễn Du đã viện dẫn nghiệp báo luân hồi một cách triệt để của Phật Giáo. Cái nghiệp như hình với bóng đeo đuổi con người đến suốt kiếp. Cái tâm căn nguyên của mọi vọng tưởng u minh mê lầm. Ở trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, Sư Tam Hợp đã giãi bày:

...

Sư rằng: Phúc họa đạo trời

Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra

Có trời mà cũng có ta

Tu là cõi phúc, tình là dây oan

...

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa

Thiện căn vốn tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

...

Qua đến tác phẩm Chiêu Hồn Thập Loại Chúng Sanh thì Cụ Nguyễn Du đã hiển lộ rõ nét về lòng tin sâu xa đối với Phật Giáo. Cụ đã đọc đến cả ngàn lần Kinh Kim Cang, Cụ tin có nhân quả luân hồi trong cuộc hành trình của thần thức đầy huyền nhiệm vượt qua mọi lý giải của triết học và khoa học hiện đại. “Người Phật Tử không nghĩ tới những giọt lệ hậu thế, dù là 300 hay 3000 năm, không nuối tiếc chốn bụi hồng, luôn luôn muốn làm người khách lạ, ra vào tự tại trong các cõi, không luyến tiếc không sợ hãi, vẫn bất tử, và diệu tâm của mình cũng là diệu tâm của tất cả chúng sanh” (Nghiêm Xuân Hồng).

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã từng ghi dấu những trang anh hùng hào kiệt trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ ngàn xưa Dũng Tướng Lý Thường Kiệt đã biết vận động tâm lý quân sĩ bằng những lời thơ đầy hào khí bất khuất, ngút lửa kiêu hùng khẳng định quyết tâm bảo vệ bờ cõi dấu yêu:

 

Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư...

 

(Đại ý Lý Thường Kiệt khẳng định nước Nam là Tổ Quốc của người Việt Nam, quân nhà Tống chớ hòng đem quân xâm lấn, thế nào rồi quân Bắc phương cũng nhận lấy sự thất bại nặng nề. Cuối cùng quân dân nước Việt chiến thắng vẻ vang)

 

Thượng Tướng Trần Quang Khải đem đại binh từ Nghệ An ra Bắc chiếm lấy Hàm Tử bị giặc chiếm đóng, quan dân ta đã ca khúc khải hoàn:

 

Đoạt sáo Chương Dương Độ

Cầm hồ Hàm Tử Quan

Thái Bình ta nỗ lực

Vạn cổ thử giang san

(Chương Dương cướp giáo giặc. Hàm Tử bắt quân thù. Thái Bình nên gắng sức. Non nước đó ngàn thu).

Như hạt cát cuốn theo cơn bão thổi vào sa mạc trí tuệ của loài người. Chúng tôi ngẩn ngơ hạnh phúc không biết phải nắm bắt thế giới nào đây! Mỗi cuốn sách là một trác tuyệt huyền nhiệm kỳ ảo uyên bác như mỗi hành tinh trong vũ trụ. Bao nhiêu đời chưa chắc đã nói hết. Thôi thì chúng tôi quay về cõi mộng mơ cố hữu trên quê hương yêu dấu, từ thuở Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, đến Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, và đến cõi thơ hiện sinh trần tục của Bà Hồ Xuân Hương, để tìm vài nụ cười thoải mái.

Mùa Xuân đã trở về đánh dấu thời điểm một chu kỳ mới của tạo hóa, một kỷ nguyên tâm thức của nhân loại hòa hợp cùng đất trời siêu nhiên kỳ diệu. Mùa Xuân rạng rỡ đến với tương lai đầy niềm tin và hy vọng giữa ngàn hoa tươi thắm. Không có gì ý vị cho bằng là cùng nhau mở ra những trang thơ tiền nhân ca ngợi mùa Xuân trong phút giây hiện thực nầy. ”Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ! Có giống như mình lưu luyến không?”

Thơ văn thời kỳ tiền chiến vẫn được các nhà biên khảo phê bình nhận định văn học đánh giá cao về phẩm chất cũng như về số lượng truyền bá trong nhân gian. Chúng ta không nên dựa vào nhận định của những nhà phê bình văn học chủ quan để thẩm định về giá trị tác phẩm như trường hợp của nhà thơ Nguyễn Bính, mặc dù không được Hoài Thanh Hoài Chân tuyển chọn vào danh sách những nhà thơ lừng lẫy thời tiền chiến, nhưng thơ Nguyễn Bính vẫn được nhân gian truyền tụng khắp nơi và vượt qua thời gian. Trong bài viết hạn hẹp nầy, chúng tôi chỉ đan cử vài nét đẹp cô đọng nhưng sinh động về cõi thơ của ông:

 

Thơ thẩn rừng chiều một khách thơ

Xa nhìn ra rặng núi xanh mờ

Khí trời êm ả và trong sáng

Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ

Hai cô con gái hái mơ già

Cô chửa về ư đường còn xa

Và bóng tà dương dần sắp tắt

Hay cô ở lại về cùng ta

Nhà ta ở dưới gốc cây dương

Cách động Hương Sơn nửa dặm đường

Có suối nước trong tuôn róc rách

Có hoa bên suối ngát đưa hương

Hỡi cô con gái hái mơ ơi!

Chẳng trả lời tôi lấy một lời

Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng

Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi...

 

Những câu thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh như thấm sâu vào tâm hồn của những người yêu thơ từ ba bốn chục năm trước đến bây giờ:

...

Trên đường về nhớ đầy

Chiều chậm đưa chân ngày

Tiếng buồn vang trong mây

...

Tôi là người lữ khách

Màu chiều khó làm khuây

Ngỡ lòng mình là rừng

Ngỡ hồn mình là mây

Nhớ nhà châm điếu thuốc

Khói chiều bay lên cây...

 

Hay những câu thơ tuyệt vời khác:

...

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé

Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân..

...

Tình mất vui khi đã vẹn câu thề

Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở

Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ

Cho nghìn sau.. lơ lửng.. với nghìn xưa..

...

Phút linh cầu mãi không về

Phân vân giấy trắng chưa nề mực đen

Khói trầm bên giấc mơ tiên

Bâng khuâng.. trăng rải qua miền quạnh hiu

Tô Châu lớp lớp phù kiều

Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam

Rạc rời, vó ngựa quá quan

Cờ trao ý cũ, mây dàn mộng xưa..

 

Theo quan niệm người xưa, mỗi khi đọc bài thơ hay phải xông trầm thơm ngát kính cẩn trân trọng để đón nhận cái khoái cảm đầy hỉ lạc của đạo vị, vì cái đẹp là nguồn vui muôn thuở, nhất là cõi thơ tuyệt vời kỳ diệu. Thời điểm của dòng thơ tiền chiến vẫn trong sáng, thơ mộng và tình tứ qua cõi thơ của Nguyễn Nhược Pháp, Thanh Tịnh, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... và Thâm Tâm với bài thơ Tống Biệt Hành vẫn tạo cho chúng ta nhiều cảm xúc nhất:

 

Đưa người ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng

-Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm, mẹ già cũng đừng mong

Ta biết người buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa hạ, sen nở nốt

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai lòng lệ sót

 

Ta biết người buồn sáng hôm nay

Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay

...

Người đi! Ừ nhỉ! Người đi thực

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu cay

Mây thu đầu núi, gió lên trăng

Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm

Ly khách ven trời nghe muốn khóc

Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm.

 

Đến những nhà thơ trong thời kỳ chiến tranh cận đại những dòng thơ thắp sáng trữ tình, vừa chiến đấu vừa yêu người tình bé bỏng ở hậu phương. Trong giới thơ văn lừng lẫy vang bóng nầy có Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Dần và nhất là Quang Dũng. Bài thơ Đôi Mắt Người Sơn Tây được lưu truyền sâu rộng trong nhân gian và trải qua nhiều thập niên vẫn còn đa số giới thưởng ngoạn thi ca yêu thích:

Em ở Thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

 

Vừng trán em vương trời quê hương

Mắt em dìu dịu buồn tây phương

Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ em nhớ thương

 

Từ độ thu về hoang bóng giặc

Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn

Đất đá ong khô nhiều ngấn lệ

Em có bao giờ lệ chứa chan?

 

Mẹ tôi em có gặp đâu không?

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi cũng có thằng con bé dại

Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

 

Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều lưu lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây

Cho nhẹ lòng nhớ thương

Em mơ cùng ta nhé

Bóng ngày mai quê hương

Đường hoa khô ráo lệ

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng

Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc

Sáo chiều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa

Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa

Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ

Còn có bao giờ em nhớ ta...

 

Cũng giống như tâm trạng của chúng tôi, khi mọi người trong gia đình rủ nhau đi dạo Tết, còn lại một mình trong thư phòng nhiều tranh Tết, thi sĩ Vũ Hoàng Chương cảm tác bài thơ Xuân:

 

Sáng chưa sáng hẳn, tối sao đành

Gà lợn om sòm cả bức tranh

Rừng vách có tai, thơ có họa

Biết lòng ai đó, mắt ai xanh

Mắt gà huynh đệ bao lần quáng

Lòng lợn âm dương một tấc thành

Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn

Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh...

 

Ta còn để lại gì không?

Kìa non đá lở, này sông cát bồi...

Lang thang từ độ luân hồi,

U minh nẻo trước, xa xôi dặm về

Trông ra bến Hoặc bờ Mê,

Ngàn thu nửa chớp, bốn bề một phương

Ta van cát bụi bên đường

Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này

Để ta tròn một kiếp say

Cao xanh liều một cánh tay níu trời

Thơ ta chẳng viết cho đời

Không vang nhịp khóc dây cười nào đâu!

Tâm hương đốt nén linh sầu

Nhớ quê giằng đặc ta cầu đó thôi

Đêm nào ta trở về ngôi

Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian

Một phen đã nín cung đàn

Nghĩ cho còn mất hơi tàn thanh âm

(Nguyện Cầu)

 

Nhiều nhà văn nổi tiếng trong sinh hoạt văn học nghệ thuật Việt Nam như Võ Phiến, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, kể cả triết gia Phạm Công Thiện... ở vào những ngày tháng cuối đời lại tìm về cõi thơ. Thơ là một siêu nghệ thuật về ngôn ngữ. Thơ rất dễ làm nhưng sáng tác nên một bài thơ hay không phải dễ. Ngôn ngữ của thi ca là một thứ ngôn ngữ đầy âm điệu thanh thoát vọng âm từ ghềnh đá, từ vực thẳm tâm thức, từ sâu đậm ấm áp của hơi thở vũ trụ huyền ảo... Thơ Nghiêm Xuân Hồng trau chuốt và uyên bác, những vần thơ tinh khiết và an nhiên, bàng bạc tư tưởng vi diệu của Phật Giáo...

 

Người về bứt áng mây hồng

Dệt y trăm sắc ngại ngùng lòng ai

Tôi về mơ giấc mơ dài

Song-hồ-hư-ảnh-trăng-cài-sắc-không

Người về bước nhỏ thong dong

Ngậm ngùi tình muộn vương lòng đỗ quyên

Tôi về mở sách u huyền

Mưa hoa lãng đãng mấy miền tịch dương

Người về nhặt nụ hướng dương

Tô thêm khóe mắt cô nường Huyền-Âm

Tôi về khép cánh hư không

Bồ-đoàn che khắp nửa vòng trần duyên

Người về tiệc rượu đảo điên

Chê ly quá nhỏ, hài sen rót đầy

Tôi về tỉa nhánh trúc gầy

Đèn khuya giãi bóng vơi đầy Hoa-Nghiêm

Người về lìa suối tịch-nhiên

Chênh vênh gót ngọc đảo điên nụ cười

Tôi về gấp áng mây trời

Ôm-trăng-đổ-giấc-bên-đồi-Tào-Khê...”

 

Nhà văn, thơ Mai Thảo, những năm cuối đời về định cư tại thủ đô người Việt tỵ nạn, những ngày Xuân Tết rộn ràng đông vui nhưng với nhà văn thơ Mai Thảo lúc nào cũng chọn cho ông một cõi riêng tĩnh lặng, ông thích một mình rong chơi khắp cùng thế giới:

 

Bước một mình qua ngưỡng cửa năm

Nhân gian tịch tịch tiếng mưa thầm

Chợt đâu vẳng tiếng gà lai kiếp

Báo vẫn đêm dầy ở cõi âm...

(Trừ Tịch)

 

Sách một dẫy nằm trơ trên giá

Cạnh người thân thế cũng trơ trơ

Sách, người hai cõi cùng hư hoại

Mới một ngàn chương thiếu một tờ...

(Lẻ Một)

 

Ngọn núi nào đâu mà khuất núi

Không nhìn thấy nữa bạn bè ta

Hóa ra núi chỉ là tên suối

Nơi của nằm yên dưới suối vàng

Tôi ở trên đường đi tới suối

Tầu lăn ình ình tầu chuyến cuối

(Núi và Suối)

 

Mùa đông, nhớ một con đường tuyết

Tịch mịch đi qua một cánh rừng

Rừng ở trên cao, cành trụi lá

Con đường tuyết phủ ấy là ta

(Con Đường Tuyết Phủ)

 

Một đóa vui cuối ngày mới nở

Đài nửa chừng hoa nhụy đã tan

Nâng bông héo muộn vào Nguyên Đán

Cho cũng riêng mình chút đỉnh Xuân

(Nở Muộn)

 

Nhà văn, nghiên cứu, biên khảo, giáo sư Vũ Ký đã nhận định về thiên tài Bùi Giáng, ”... Bùi Giáng có biệt tài học và hiểu ngoại ngữ rất nhanh, như Pháp, Anh, Đức ngữ, nên ông đã đi vào thế giới của Simone de Beauvoire, Jean Paul Sartre, Heidegger, Somerset Maugham, của Francois Sagan, của Camus, Henry Miller.. thêm vào những triết lý của Khổng, Lão và Phật Giáo, nên đã làm cho Bùi Giáng sống trong nghịch lý triền miên trong tâm thức.. Tuy nhiên, Bùi Giáng tinh lọc những tuyệt vời nhất để hình thành những dòng thơ rất Đông Phương và cũng rất là Bùi Giáng”:

 

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước miên trường phía sau

Tóc xanh dù có phai màu

Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

Xin chào nhau giữa lúc này

Có ngàn năm đứng ngó cây cối và

Có trời mây xuống lân la

Bên bờ nước có bóng ta bên người

Xin chào nhau giữa bàn tay

Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con

Thưa rằng: những ngón thon thon

Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Xin chào nhau giữa làn môi

Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam

Thưa rằng: bạc mệnh xin kham

Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

...

Xin chào nhau giữa bụi đầy

Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu

Hỏi rằng: người ở quê đâu

Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà

Hỏi rằng: từ bước chân ra

Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài

Thưa rằng: nói nữa là sai

Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào

Hỏi rằng: đất trích chiêm bao

Sá gì ngầu nhĩ mà chào đón nhau

Thưa rằng: ly biệt mai sau

Là trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân...

 

Dòng thơ Việt như dòng thác đổ từ đầu nguồn Tây Tạng xuyên qua bao ghềnh núi cheo leo, hoang vu vực thẳm vượt nghìn trùng non cao đến những phù sa Cửu Long Giang cây trái mật, để cuối cuộc hành trình đầy trăng sao thơ mộng là hòa tan vào đại dương mênh mông. Mỗi chặng đường là trăm ngàn đóa hoa vi diệu bát ngát hương thơm ngược gió thời đại lưu truyền mãi trong tâm thức nhân gian. Trùng trùng duyên khởi thăng hoa như tên tuổi để đời, của những trang thơ hiện đại như Hoàng Trúc Ly, Cung Trầm Tưởng, Vũ Hữu Định, Viên Linh, Đinh Hoàng Sa, Cao Mỵ Nhận, Tường Linh. Luân Hoán, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Thành Tôn, Nguyễn Mạnh Trinh, Trần Mộng Tú, Huy Trâm, Trần Trung Đạo, Phan Xuân Sinh.. như những vì sao lấp lánh trên bầu trời văn học Việt Nam. Có những bài thơ đọc lại nhiều lần vẫn yêu thích cái không khí cổ kính bàng bạc ”lối xưa xe ngựa hồn thu thảo - nền cũ lâu đài bóng tịch dương...” - thơ của Bà Huyện Thanh Quan.   Chúng tôi vẫn yêu những dòng thơ trữ tình của Nguyên Sa: Áo Lụa Hà Đông, Cần Thiết, Tương Tư, đến Em Gầy Như Liễu Trong Thơ Cổ:

 

Em ốm nghe trời lượng đã hao

Em ngồi trong nắng mắt xanh xao

Anh đi giữa một ngàn thu cũ

Nhớ mãi mùa thu bẽn lẽn chào

 

Anh nhớ em ngồi áo trắng thon

Ngàn năm còn mãi lúc gần quen

Em gầy như liễu trong thơ cổ

Anh bỏ trường thi lúc thịnh Đường

 

Anh nhớ sông có nguyệt lạ lùng

Có trời lau lách chỗ hư không

Anh tìm âu yếm trong đôi mắt

Thấy cả vô cùng dưới đáy sông

 

Anh nắm tay cho chặt tiếng đàn

Tiếng mềm hơi thở, tiếng thơm ngoan

Khi nghe tiếng lạnh vào da thịt

Nhớ tiếng thơ về có tiếng em...

 

Trên những chặng đường trôi nổi thăng trầm theo mệnh nước, theo cuộc đời nương tựa nơi chốn bụi hồng, đã tạo cho chúng tôi những nhận định về cõi thơ Du Tử Lê, chàng lãng tử đã ăn ở thủy chung với văn chương Việt Nam lâu dài nhất. Chúng ta có thể tìm thấy tâm trạng khắc khoải, u trầm trong Thơ Tình, Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà, Ở Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu, Đi Với Về Cũng Một Nghĩa Như Nhau, Mẹ-Về Biển Đông, Người Nhón Gót Thả Diều Chưa Nói Hết..

...

Cõi tôi, cõi nát, cõi tàn

Cõi hoang mang, vội, cõi bàng hoàng, qua

Cõi vui nhân thế cõi già

Cõi lang thang mượn mái nhà hư không

Cõi xanh, cõi lạnh, cõi cùng

Cõi con muốn bỏ, cõi chồng, vợ, xa

Cõi em muốn dạt chân về

Cõi đau nhân thế, cõi thề thốt, quên

Cõi nào cõi thật, tôi riêng?

Cõi đêm máu chảy, cõi thương, nhớ, trùng

Cõi tôi, cõi mịt, cõi mùng

Thôi em có ghé xin đừng nghỉ lâu

Cõi đời đó, có chi đâu!

 

Chỉ bài thơ nầy thôi, Du Tử Lê đã vẽ lên chân dung đích thực, và chúng ta cảm nhận rõ nét nhất: Du Tử Lê người lãng tử hạnh phúc. Ông đã vượt tới cái tâm thức bát nhã, cái thể lý đồng nhất của tạo hóa, rong chơi suốt bốn mùa hoa cỏ ngát thơm. Tiếng vọng lại bên kia bờ tử sinh chỉ còn là cõi tâm động hoang vu ngoài biên giới của tình yêu thơ mộng.. (Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt..).

Đi sâu vào thế giới thơ văn của tiền nhân, bằng hữu... càng bị cuốn hút vào cõi mê hoặc không lối ra. Thời gian thì qua mau, ”ngày xuân con én đưa thoi”, mới sớm mai đã nắng chiều hiu hắt trên ngọn cây thông già.

Thiền Sư K. S. Dhammananda đã nhận định về con người hiện đại không nghe tiếng nói của thiên nhiên vì quá bận bịu với lòng ham muốn vật chất và lạc thú. Hoạt động tâm thần của người đó quá mải mê với những thú vui trần tục nên đã chểnh mảng không lưu ý tới sự cần thiết của chính tâm trí mình. Thái độ bất thường của con người hiện đại dẫn ngay đến kết quả trong một nhận định sai lầm về đời sống trên thế gian và về mục đích tối hậu của cuộc đời. Đó là nguyên nhân của tất cả các mối thất vọng, lo âu, sợ hãi, bấp bênh trong hiện tại...

Qua những kinh nghiệm thật nhỏ bé thu nhận trong cuộc hành trình trên sáu mươi năm nơi cõi tạm trần gian, đến lúc chúng tôi hiểu được ”Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường...”. Hãy tự vỗ về nỗi khổ đau trong từng giây phút tĩnh tâm an lạc, bằng những thăng hoa tư tưởng hướng thiện. Như trong vườn hoa mỗi sớm mai vẫn an nhiên nở rực rỡ dưới ánh mặt trời trước hiên nhà, mặc dù chỉ ngắn ngủi một ngày thôi, rồi sẽ tàn tạ trong lặng lẽ cuộc đời. Bao giờ cũng nên tâm niệm, hãy cố gắng làm cho thế giới chung quanh chúng ta có một đời sống tốt đẹp hơn, như những trang sách quý đã tạo cho chúng tôi niềm hạnh phúc thật sự sáng hôm nay, những phút giây mở ra bầu trời mùa Xuân khởi điểm một năm mới đầy niềm tin và hy vọng.  Như Thiền Sư Mãn Giác đã dặn dò đệ tử qua bài thơ bất hủ lưu truyền, chúng tôi chỉ xin đan cử hai câu cuối:

 

...Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Tiền đình tạc dạ nhất chi mai...

 

... Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai...

 

Cành mai là Chân Như, là ý niệm mầu nhiệm miên viễn vượt không-thời-gian, Tâm thức khởi động từ tiểu ngã đến đại ngã, kết tinh niềm an lạc hiện hữu. Chúng ta phải tự tin và lạc quan trong cuộc sống, dĩ vãng đã qua và ngày mai chưa đến. Hãy an nhiên tự tại phấn đấu vượt qua cho dù cuộc đời nhiễu nhương đau khổ hằng sa thử thách. Cho dù dòng suối đã cuồn cuộn sông ra biển, nhưng sẽ bốc hơi thành mưa tắm mát núi non ruộng đồng cố quận. Tri ân tiền nhân và cảm tạ bằng hữu đã cho tôi trọn vẹn một ngày đầu Xuân hỷ lạc cùng với chữ nghĩa văn chương...đậm đà cốt tủy nơi xứ người.

 

THÁI TÚ HẠP